Cách làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ

1. Lý do chọn đề tài :

 Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy ở học sinh bậc trung học cơ sở khả năng cảm thụ tác phẩm (đặc biệt là tác phẩm thơ) và kỹ năng tạo lập văn bản có chiều hướng giảm sút. Hơn nữa khi lên bậc trung học phổ thông học sinh sẽ sử dụng nhiều đến kiến thức về nghị luận tác phẩm. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài “ Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ”để nghiên cứu, tìm tòi cách dạy hữu hiệu và có tính khả thi với mong muốn cải tiến phương pháp dạy học môn ngữ văn theo hướng tích cực .

2 . Phạm vi đề tài :

 Lựa chọn đề tài “ Hướng dẫn học sinh làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ” là tôi hướng đến việc rèn luyện năng lực cảm thụ tác phẩm và kỹ năng viết bài văn cho học sinh. Nhưng trước hết phải giúp học sinh thấy được vẻ đẹp của tác phẩm thơ ca. Từ đó hình thành sự yêu thích thơ ca. Sau đó mới rèn luyện năng lực cảm thu tác phẩm và viết những hiểu biết của mình về tác phẩm thơ ca đó thành bài văn nghị luận. Tức là giúp học sinh phát hiện những tín hiệu thẩm mỹ và biết cách phân tích để thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm thơ ca. Sau đó là tạo lập văn bản nghị luận dựa trên những hiểu biết của mình về tác phẩm đó. Tóm lại, “ Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ” là bước đầu hình thành và rèn luyện năng lực văn chương ở học sinh trung học cơ sở.

 

doc12 trang | Chia sẻ: giaoanmamnon | Lượt xem: 2411 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC EAKA
TRƯỜNG THCS PHAN CHU TRINH
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CÁCH LÀM BÀI NGHỊ LUẬN
 VỀ ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ.
 Người thực hiện:NGUYỄN VĂN THUẤN
 Eakar ngày 12 tháng 12 năm2009
 LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
 Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy ở học sinh bậc trung học cơ sở khả năng cảm thụ tác phẩm (đặc biệt là tác phẩm thơ) và kỹ năng tạo lập văn bản có chiều hướng giảm sút. Hơn nữa khi lên bậc trung học phổ thông học sinh sẽ sử dụng nhiều đến kiến thức về nghị luận tác phẩm. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài “ Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ”để nghiên cứu, tìm tòi cách dạy hữu hiệu và có tính khả thi với mong muốn cải tiến phương pháp dạy học môn ngữ văn theo hướng tích cực .
2 . Phạm vi đề tài :
 Lựa chọn đề tài “ Hướng dẫn học sinh làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ” là tôi hướng đến việc rèn luyện năng lực cảm thụ tác phẩm và kỹ năng viết bài văn cho học sinh. Nhưng trước hết phải giúp học sinh thấy được vẻ đẹp của tác phẩm thơ ca. Từ đó hình thành sự yêu thích thơ ca. Sau đó mới rèn luyện năng lực cảm thu ïtác phẩm và viết những hiểu biết của mình về tác phẩm thơ ca đó thành bài văn nghị luận. Tức là giúp học sinh phát hiện những tín hiệu thẩm mỹ và biết cách phân tích để thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm thơ ca. Sau đó là tạo lập văn bản nghị luận dựa trên những hiểu biết của mình về tác phẩm đó. Tóm lại, “ Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ” là bước đầu hình thành và rèn luyện năng lực văn chương ở học sinh trung học cơ sở. 
PHẦN THỨ NHẤT: THỰC TRẠNG
1. nghiên cứu tình hình :
 Học sinh lớp 9 ( lớp cuối bậc trung học cơ sở ) là những học học sinh ở lứa tuổi nhạy bén với hay, cái mới lạ. Đây cũng là lứa tuổi thích tìm tòi, khám phá, vẻ đẹp văn chương sẽ giúp các em hứng thú hơn với môn học ngữ văn. Một đặc điểm nữa trong tâm lý học sinh trung học cơ sở là muốn được khẳng định mình và tập làm người lớn. Điều này thuận lợi cho việc giúp các em bước đầu định hình cách viết, văn phong cho mình khi tạo lập văn bản .
 Cùng với tâm lý học sinh trung học cơ sở, hệ thống chương trình ngữ văn ở các lớp dưới đã giúp học sinh lớp 9 có những kiến thức cơ bản để thực hiện bài văn nghị luận về tác phẩm thơ. Nếu các nội dung lập luận giải thích, lập luận chứng minh ở lớp 7, kiểu bài thuyết minh ở lớp 8, học sinh tiếp thu tốt thì đó sẽ là cơ sở thuận lợi cho việc dạy kiểu bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ ở lớp 9 .
 Dựa trên cơ sở đặc điểm tâm lý và nội dung chương trình ngữ văn bậc trung học cơ sở chúng tôi mạnh dạn thực hiện đề tài “ Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ” ở lớp 9 .
2. Thực trạng tình hình.
 Qua thực tế giảng dạy nhiều năm cứ đến bài viết văn nghị luận về bài thơ, đoạn thơ là chất lượng điểm bài kiểm tra rất thấp, thoạt đầu bản thân nghĩ do học sinh lười học, chủ quan nên dẫn đến kết quả như vậy. Nhưng hiện tượng này lặp đi lặp lại nhiều năm nên bản thân nhận thấy ở đây tồn tại một vấn đề về phương pháp làm văn nghị luận? Sau đây là bảng thống kê điểm bài kiểm tra loại này trong một số lớp học ở vài năm gần đây:
stt
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Lớp
Ts học sinh
Trên TB
Lớp 
Ts học sinh
Trên TB
Lớp 
Ts học sinh
Trên TB
1
9A1
47
21
9A1
48
25
9A1
45
23
2
9A5
44
19
9A2
47
20
9A4
48
21
3
9A6
41
15
9A4
43
17
9A6
44
19
4
9A8
45
18
9A6
41
19
9A7
42
16
3. Đối tượng nghiên cứu : 
 Đề tài “ Cách làm bài văn nghị luận về đoạn thơ , bài thơ” được nghiên cứu, thực hành ở lớp 9 Trường THCS Phan Chu Trinh. Trong quá trình thực hiện chúng tôi có kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ và có những điều chỉnh kịp thơiø. Đề tài được thực từ ngày 01/12/2007 đến ngày 05/05/2008 hoàn thành bản thảo đề tài ngày 01/12/2009 .
4. Phương pháp nghiên cứu :
 Đề tài được thực bằng cách đem lý thuyến áp dụng vào thực tế, có điều chỉnh bổ sung và từ thực tiễn rút ra phương pháp luận cuối cùng. Quá trình nghiên cứu, thực hành tôi sử dụng các phương pháp dạy học sau :
 - Thuyết trình giảng giải .
 - Vấn đáp tìm tòi .
 - Hợp tác trong từng nhóm nhỏ .
 PHẦN THỨ HAI:CÁC GIẢI PHÁP
1.Nghị luận về đoạn thơ , bài thơ là gì ?
 Nghị luận là bàn, đánh giá cho rõ về một vấn đề nào đó. Vậy nghị luận về đoạn thơ, bài thơ là bàn, đánh giá những gì ?
 Một bài thơ thường có dung lượng nhỏ nhưng chứa đựng nội dung lớn. Vì vậy mỗi bài thơ thường có nhiều tầng ý nghĩa. Để hiểu được các tầng nghĩa của một bài thơ người đọc phải hiểu được các từ ngữ trong bài thơ đó. Ngôn từ trong thơ ca thường mang nhiều sắc thái ý nghĩa nên có tác dụng chuyển tải nội dung rất phong phú. Một yếu tố khác cấu thành nội dung bài thơ là hình ảnh trong thơ ( tức là hình tượng yhơ ). Hình tượng thơ có thể mang ý nghĩa cụ thể, có thể có ý nghĩa khái quát hoặc cùng lúc vừa có ý nghĩa khái quát vừa có ý nghĩa cụ thể. Nó giúp tác giả bộc lộ tư tưởng, tình cảm của mình. Bằng hình tượng thơ, tác giả có thể biến vấn đề cá nhân thành vấn đề mang tính xã hội và có giá trị lịch sử. Cùng với các yếu tố trên, yếu tố giọng điệu, nhịp điệu thơ cũng có vai trò quan trọng. Nó thể hiện cảm xúc tâm trạng của tác giả và làm tăng tính nhạc cho bài thơ. Ngoài ra còn có nhiều yếu tố quan trọng khác như thể thơ, cách gieo vần
 Như vậy nghị luâïn về đoạn thơ, bài thơ là đánh giá về giá về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ đó. Mà giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nhịp điệu  trong bài thơ. Do đó nghị luận về đoạn thơ, bài thơ phải bắt đầu từ các yếu tố cấu thành giá trị nội, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ có ý kiến đánh giá của người nghị luận .
 2. Những vấn đề cơ bản để thực hiện bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ :
 Thơ ca có đặc trưng riêng của nó. Kiểu bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ cũng có những yêu cầu riêng. Theo chúng tôi, để giảng dạy kiểu bài này người dạy phải hệ thống và nắm vững những vấn đề cơ bản để thực nghị luâïn về đoạn thơ, bài thơ
 Qua quá trình nghiên cứu, tìm tòi và thực hiện tôi rút ra những vấn đềø cơ bản sau đây :
 2.1. Kiến thức :
 Để thực hiện nghị luận về đoạn thơ, bài thơ đòi hỏi người làm phải có kỹ năng phân tích tổng hợp và lập luận tốt. Cùng với đó là khả năng liên hệ, tích hợp kiến thức các phân môn, các môn học linh hoạt.
 2.1.1. Phân môn tập làm văn:
 Giáo viên phải nắm vững, yêu cầu học sinh nắm được và hướng dẫn học sinh vận dụng tốt kiến thức tập làm văn đã học từ đầu cấp học cho đến khi học kiểu bài nghị luận về đoạn, bài thơ.
 Phương pháp lập luận giải thích giúp học sinh giải thích nội dung ý nghĩa từ ngữ và hình tượng thơ. Nghị luận chứng minh là cách làm sáng tỏ những nhận định của học sinh trong bài làm. Các kiểu thuyết minh giúp rèn luyện kỹ năng lập luận. Đặc biệt kiểu bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo đức lối sống sẽ giúp học sinh có cách đưa ra nhận xét, đánh giá hợp lý và chính xác nhất.
 Mỗi bài tập làm văn đều có tác dụng đối với kiểu bài tập làm văn tiếp theo. Vì vậy giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh vận dụng một cách tích cực, có hiệu quả kiến thức đã học. Để thực hiện điều này thì tất cả giáo viên dạy bộ môn ngữ văn ở các khối lớp đều phải chú ý rèn luyện kỹ năng vận dụng lý thuyết vào thực hành cho học sinh.
 2.1.2. Phân môn văn học:
 Đây là phân môn cung cấp dữ liệu văn chương cho học sinh làm bài. Vì vậy giáo viên phải chú ý giảng dạy, gợi mởđể học sinh lĩnh hội được cái hay, cái đẹp, những thành công, hạn chế của tác phẩm. Vì chương trình ngữ văn mới không sắp xếp trình bày các tác phẩm theo thời kỳ văn học mà sắp xếp theo phương thức biểu đạt. Do đó, khi giảng dạy giáo viên phải phát huy tính sáng tạo trong dạy học. Đó là từng bước cung cấp kiến thức về quan niệm thẩm mỹ, tâm lý tiếp nhận của người đọc ở mỗi thời đại. Điều này không dễ nhưng có thể từng bước thực hiện được. Nếu học sinh không hiểu những luật tục cổ hủ và thân phận thấp hèn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thì khó đồng cảm với những đau thương mất mát mà Thúy Kiều ( “Truyện Kiều” – Nguyễn Du) và của Vũ Thị Thiết (“ Chuyện Nười Con Gái Nam Xương” Nguyễn Dữ ) phải gánh chịu. Học sinh không biết những chuẩn mực sống đẹp của người phụ nữ trong xã hội phông kiến thì cũng khó rung động trước những bi kịch của những nhân vật phụ nữ kể trên. Tương tự như vậy, để học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của chàng trai Lục Vân Tiên (Truyện Lục Vân Tiên- Nguyễn Đình Chiểu ), giáo viên nhất thiết phải cung cấp quan niệm sống đẹp của người trai đất Việt trong xã hội phong kiến. Khi học sinh hiểu quan niệm thẩm mỹ của nhân ta trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ thì việc cảm thụ vẻ đẹp của người lính trong bài thơ “ Đồøng chí” ( Chính Hữu ) và “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ( Phạm Tiến Duật ) sẽ thuận lợi hơn. Hoặc xu hướng ca ngợi thiên nhiên, đất nước, đi vào cái bản ngã, đề cao giá trị nhân bản trong thơ ca sau 1975 mà học sinh không hiểu được thì khó cảm nhận hết cái hay trong “ Aùnh trăng” ( Nguyễn Duy ) , “ Sang thu” (Hữu Thỉnh )
 Một tiết văn học giảng dạy một tác phẩm là giáo viên cung cấp một số cơ sở dữ liệu để học sinh sử dụng vào bài tập làm văn. Cho nên phải đặt tác phẩm vào đúng bối cảnh xã hội, quan niệm xã hội khi nó ra đời nhằm giúp học sinh hiểu đúng giá trị tác phẩm. Để học sinh viết được bài văn nghị luâïn về đoạn thơ, bài thơ giáo viên phải mang đến cho học sinh không chỉ nội dung tư tưởng của tác phẩm mà còn là cảm xúc tâm trạng của tác giả được gởi gắm vào bài thơ đó .
 2.1.3. Phân môn Tiếng Việt :
 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm thơ ca, gáo viên phải huy động cùng lúc kiến thức nhiều môn học như : từ vựng ngữ nghĩa,ngữ pháp tiếng Việt , thi pháp học, phong cách học tiếng Việt, mỹ học  Đó sẽ là chìa khóa để cảm thụ tác phẩm thơ ca Việt Nam. Đồng thời đó cũng là phương tiện để thực hiện bài tập làm văn của học sinh. Những bài học về phép tu từ từ ngữ, trường từ vựng học sinh cần ghi nhớ, sử dụng. Đặc biệt , giáo viên luôn nhắc học sinh tuân thủ các phương châm hội thoại khi làm bài để tránh thừa từ, lặp từ làm cho câu văn dài dòng, tối nghĩa.
 Cung cấp cho học sinh kiến thức từ vựng ngữ nghĩa, phong cách học tiếng Việt se õgiúp học sinh hiểu được thái độ, tình cảm của tác giả thể hiện trong bài thơ. Chỉ với từ “lao xao” trong câu “trước thầy sau tớ lao xao” và từ “tót” trong câu “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” tác giả Nguyễn Du đã thể hiện được thái độ của mình đối với nhân vật Mã Giám Sinh. Thái độ ăn năn hối lỗi của một người đánh mất quá khứ được Nguyễn Duy thể hiện rất đạt qua các câu thơ :
Ngửa mặt lên nhìn mặt
“Có cái gì rưng rưng”.
Và:
“ Aùnh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình” .
 Hoặc sự ngỡ ngàng khi nhận ra mùa thu đã về của tác giả Hữu Thỉnh được gởi gắm rất tài tình qua các từ “ bỗng” và “hình như” trong các câu :
“ Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
 Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.
 Như chúnh ta đã từng thấy bài thơ, đoạn thơ dù ngắn dù dài đều có những câu, những từ đóng vai trò then chốt(thường gọi là nhãn tự). Khi phân tích, ta phải tìm được những từ ngữ độc đáo ấy để lột tả được linh hồøn của bài thơ, đoạn thơ. Câu thơ sau trích trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi hãy thưa”
 Ở đây Thuý Kiều là chị mà sao lại cậy? Cậy là chỉ có kẻ dưới, kẻ yếu nhờ kẻ trên. Sao tác giả lại không dùng:
Nhờ em em có chịu lời
Trông em em có chịu lời
 Từ “cậy” ở đây được tác giả dùng rất đắt. Nó nói lên tâm trạng tan nát, đau đớn của Thúy Kiều mong cho Thúy Vân nhận lời kết nối với Kim Trọng, thay nàng chăm sóc cho chàng. Thương mối tình trong trắng với Kim Trọng mà phải trao gửi lại, nàng thấy mình có tội. Chính vì thế mà nàng mong Thúy Vân gánh vác trách nhiệm nặng nề và khó khăn này nên phải “cậy”. Hay trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải có đoạn viết:
“Ơi con chim chiền chiện.
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
 Cái hay của đoạn thơ này là gì? “Từng giọt long lanh rơi”. Xưa nay người ta đón nhận âm thanh bằng thính giác, ở đây tác giả lại đón nhận âm thanh bằng xúc giác, thị giác: “giọt” âm thanh. Đó chính là cái hay cái thú vị của oạn thơ, một sự chuyển đổi cảm giác. Trong bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh có câu: “Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”. Tại sao tác giả không dùng:
Khua mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Đẩy mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
Mà lại “phăng”, phăng là động từ mạnh thể hiện sức mạnh của con người, nhanh nhẹn, rứt khoát qua đó cũng hứa hẹn một thành quả lao động rực rỡ ngoài khơ3i xa mà nếu dùng “khua”, “đẩy” sẽ không làm thoát được ý này, nhịp thơ thiếu mạnh mẽ, hào hùng.
 Học sinh vâïn dụng kiến thức Tiếng Việt để hiểu tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Gáo viên từng bước giáo dục học sinh vận dụng vào việc lựa chọn từ ngữ trong bài làm văn. Đây là yếu tố quan trọng để học sinh có cảm xúc cùng chiều với tác giả và thể hiện ở bài làm một cách chân thật, tự nhiên.
 Một bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ buộc phải có cảm xúc gần với mạch cảm xúc của tác giả và được thể hiện chân thật, tự nhiên. Để làm được điều này không thể xem nhẹ phân môn Tiếng Việt trong khi giảng dạy bộ môn Ngữ văn .
 2.1.4. Kiến thức lịch sử :
 Quan niệm thẩm mỹ, tâm lý tiếp nhận và cơ sở tư tưởng của tác giả phụ thuộc rất nhiều vào bối cảnh xã hội của mỗi thời kỳ lịch sử . Do đó bắt buộc phải tích hợp kiến thức lịch sử khi tiếp cận tác phẩm văn chương. Không có kiến thức lịch sử về xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX sẽ không thấy hết sự cao cả của chủ nghĩa nhân đạo trong “ Truyện Kiều”, không thấy được khát vọng tự do được gởi gắm qua nhân vật Từ Hải (“ Truyện Kiều” – Nguyễn Du ) và Lục Vân Tiên ( “ Truyện Lục Vân Tiên” – Nguyễn Đình Chiểu ). Học sinh liên hệ lịch sử nước ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thì mới thấy vẻ đẹp trong thái độ dứt khoát, tư thế ung dung hiên ngang của người lính cách mạng trong bài thơ “ Đồøng chí” ( Chính Hữu ) và bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ( Phạm Tiến Duật ). Hay cảm hứng về vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước ca ngợi lãnh tụ được chú ý khi đất nước thống nhất. Lúc này lịch sử đã sang trang con người nhìn nhận đúng về vai trò của mình trong công cuộc xây dựng đất nước. Khát vọng và lòng biết ơn được thể hiện rất chân thành, gần gũi trong các bài thơ “ Viếng lăng Bác” ( Viễn Phương ), “ Mùa xuân nho nhỏ” ( Thanh Hải ). Hoặc hướng đến tính nhân bản , chiêm nghiệm về bản thân , nhà thơ như tự mổ xẻ để đánh giá, nhận xét về chính mình trong bài thơ “ Aùnh trăng” ( Nguyễn Duy ) .
 Tất cả những nội dung đó phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh lịch sử. Vì vậy phải đặt tác phẩm vào hoàn cảnh lịch sử khi nó ra đời thì mới cảm thụ được tác phẩm. Từ đó có hướng nghị luận về bài thơ phù hợp với tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ sẽ rất nhạt ( nến không nói là phản nghĩa ) khi mgười nghị luận không hiểu hoàn cảnh lịch sử khi tác phẩm ra đời vàkhông tự đặt mình vào bối cảnh đó để cảm nhận và nghị luận về tác phẩm thơ ca đó .
 2.2. Năng lực cảm thụ tác phẩm : 
 Rèn luyện, bồi dưỡng năng lực cảm thụ tác phẩm ở học sinh là việc làm thường xuyên, lâu dài vì nó rất quan trọng. Nếu học sinh không có năng lực cảm thụ tác phẩm thì việc giảng dạy kiểu bài nghị luận tác phẩm ( đặt biệt là tác phẩm thơ ) sẽ thất bại vì học sinh không xác định được mình sẽ nghị luận về vấn đề gì? Vấn đề dó ra sao? Nên nghị luận như thế nào? Như vậy để giảng dạy có hiệu quả kiểu bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ giáo viên phải liên tục rèn luyện năng lực cảm thụ tác phẩm cho học sinh. Theo tôi, giáo viên phải nắm vững kiến thức đã nêu ở trên ( mục 2.1 ) để giúp học sinh cảm thụ được tác phẩm .
 Sau khi đọc bài thơ học sinh xác định được hoàn cảnh sáng tác vài thơ đó. Tức là những gì tác động đến tác giả để tác giả viết nên bài thơ đó. Từ đó tìm hiểu được nội dung phản ánh, ước mơ, khát vọng hay tâm trạng, cảm xúc của tác giả thông qua các tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm thơ ca đó. Đặt bài thơ trong hoàn cảnh lịch sử khi nó ra đời để định hướng nghị luận về tư tưởng thẩm mỹ của tác phẩm. Xác định nguồn mạch cảm xúc của tác giả rồi tự đặt mình vào đấy , trôi theocảm xúc đó để cảm và viết những cảm nhận của mình thành bài văn nghị luận có cảm xúc tự nhiên, chân thành. Nói cách khác, học sinh phải biết soi mình vào tác phẩm thơ ca để hiểu được tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Từ đó khám phá vẻ đẹp văn chương của tác phẩm thơ ca đó. Khi viết bài văn nghị luận học sinh cần phải viết bằng cảm xúc, tâm trạng cùng chiều với tác giả thì bài văn mới có cảm xúc tự nhiên được. 
 Rèn luyện năng lực cảm thụ tác phẩm cho học sinh giáo viên không thể không cung cấp cho học sinh quan niệm thẩm mỹ, tư tưởng xã hội, hoặc những quy luật tâm lý, những đạo lý truyền thống.
 Khi tìm hiểu tác phẩm thơ ca trung đại học sinh phải được cung cấp những tiêu chí như : cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt là cảnh đẹp. Những hình ảnh, âm thanh gắn với một trạng thái tâm lý nhất định. Những loài cây như mai, lan, cúc, trúc có ý nghĩa như thế nào? Tiêu chí vẻ đẹp trong cách sống ra sao ?.... Như vậy sẽ giúp học sinh hiểu được những câu thơ tả cảnh ngụ tình, miêu tả tâm trạng nhân vật hay ca ngợi vẻ đẹp trong cách sống của Thúy Kiều ( trong “ Truyện Kiều” – Nguyễn Du ), của Lục Vân Tiên ( trong “ Truyện Lục Vân Tiên” _ Nguyễn Đì

File đính kèm:

  • docSang kien kinh nghiem cach lam mot bai van.doc