Hiệu trưởng kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên trong nhà trường

 Giảng dạy là nhiệm vụ trung tâm của nhà trường. Qua giảng dạy người giáo viên vừa truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản của nhân loại, của dân tộc và của thời đại, vừa rèn luyện cho các em những kỹ năng biết vận dụng những tri thức khoa học vào đời sống thực tế từ đó hình thành cho các em một thế giới quan khoa học, một nhân sinh quan cách mạng cao quí, có tư tưởng tình cảm, thái độ đúng đắn với cuộc sống xã hội và con người. Vì thế, việc giảng dạy, giáo dục cho thế hệ trẻ có một nhân cách của người lao động mới để thay thế lớp lao động lão hóa đối với nhà trường là một hoạt động rất quan trọng và cần thiết của người giáo viên.Đồng chí cố Bí thư Lê Duẫn đã từng phát biểu “Dạy và học không chỉ dạy những bài học, những con số khô khan, mà còn phải biết dạy bằng tất cả tấm lòng ”. Vì thế để có lớp người mới trong xã hội tiến bộ, văn minh thì phải có một nền tảng giáo dục vững chắc, một đội ngũ thầy giáo, cô giáo có tâm huyết đầy lương tâm và trách nhiệm đối với thế hệ trẻ tương lai. Đồng thời đội ngũ thầy cô giáo phải có trình độ sư phạm, năng lực cơ bản biết tiếp nhận, xử lý thông tin nhanh nhẹn, kịp thời và chính xác.

 Nói đến dạy học là nói đến tính mô phạm đặc thù, đến tính khuôn mẫu của thầy cô giáo. Cho nên người giáo viên phải thực hiện đúng và tốt các quy định chung về giảng dạy. Đảm bảo đủ hồ sơ chuyên môn ( giáo án, kế hoạch giảng dạy cá nhân, sổ điểm, sổ chủ nhiệm, sổ dự giờ và sổ tích lũy kinh nhiệm ) và hoàn thành xuất sắc giờ dạy trên lớp. Bên cạnh ấy người giáo viên phải đảm bảo các hoạt động, sinh hoạt trong nhà trường, nhất là sinh hoạt tổ chuyên môn. Có nghĩa là những vấn đề trên buộc người giáo viên phải thực hiện nhằm giúp cho người giáo viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giảng dạy của mình. Nhưng mọi hoạt động của người giáo viên không thể tự do hoạt động mà cần phải có một đội ngũ quản lý mà người quản lý cao nhất trong nhà trường là người hiệu trưởng. Để đưa hoạt động giáo dục đi vào quỹ đạo chung của xã hội và kịp thời thúc đẩy, uốn nắn, giúp đỡ tạo điều kiện cho người giáo viên hoàn thành tốt công tác mà được Đảng và Nhà nước giao phó.

 

doc16 trang | Chia sẻ: giaoanmamnon | Lượt xem: 2608 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu trưởng kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên trong nhà trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI 
 Hiệu trưởng kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên trong nhà trường
I/ PHẦN MỞ ĐẦU
 1/ Lý do chọn đề tài:
 Giảng dạy là nhiệm vụ trung tâm của nhà trường. Qua giảng dạy người giáo viên vừa truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản của nhân loại, của dân tộc và của thời đại, vừa rèn luyện cho các em những kỹ năng biết vận dụng những tri thức khoa học vào đời sống thực tế từ đó hình thành cho các em một thế giới quan khoa học, một nhân sinh quan cách mạng cao quí, có tư tưởng tình cảm, thái độ đúng đắn với cuộc sống xã hội và con người. Vì thế, việc giảng dạy, giáo dục cho thế hệ trẻ có một nhân cách của người lao động mới để thay thế lớp lao động lão hóa đối với nhà trường là một hoạt động rất quan trọng và cần thiết của người giáo viên.Đồng chí cố Bí thư Lê Duẫn đã từng phát biểu “Dạy và học không chỉ dạy những bài học, những con số khô khan, mà còn phải biết dạy bằng tất cả tấm lòng”. Vì thế để có lớp người mới trong xã hội tiến bộ, văn minh thì phải có một nền tảng giáo dục vững chắc, một đội ngũ thầy giáo, cô giáo có tâm huyết đầy lương tâm và trách nhiệm đối với thế hệ trẻ tương lai. Đồng thời đội ngũ thầy cô giáo phải có trình độ sư phạm, năng lực cơ bản biết tiếp nhận, xử lý thông tin nhanh nhẹn, kịp thời và chính xác.
 Nói đến dạy học là nói đến tính mô phạm đặc thù, đến tính khuôn mẫu của thầy cô giáo. Cho nên người giáo viên phải thực hiện đúng và tốt các quy định chung về giảng dạy. Đảm bảo đủ hồ sơ chuyên môn ( giáo án, kế hoạch giảng dạy cá nhân, sổ điểm, sổ chủ nhiệm, sổ dự giờ và sổ tích lũy kinh nhiệm) và hoàn thành xuất sắc giờ dạy trên lớp. Bên cạnh ấy người giáo viên phải đảm bảo các hoạt động, sinh hoạt trong nhà trường, nhất là sinh hoạt tổ chuyên môn. Có nghĩa là những vấn đề trên buộc người giáo viên phải thực hiện nhằm giúp cho người giáo viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giảng dạy của mình. Nhưng mọi hoạt động của người giáo viên không thể tự do hoạt động mà cần phải có một đội ngũ quản lý mà người quản lý cao nhất trong nhà trường là người hiệu trưởng. Để đưa hoạt động giáo dục đi vào quỹ đạo chung của xã hội và kịp thời thúc đẩy, uốn nắn, giúp đỡ tạo điều kiện cho người giáo viên hoàn thành tốt công tác mà được Đảng và Nhà nước giao phó.
 Vì thế, “ Việc kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên” là một chức năng quan trọng của người hiệu trưởng trong nhà trường. Nhưng trong thực tế của nhà trường không phải chỉ có giảng dạy, giáo dục học sinh trong phạm vi của nhà trường mà phải chăm lo nhiều công tác khác. Như hiệu trưởng phải lo đối nội, đối ngoại, chăm lo cơ sở vật chất trang thiết bị, kinh phí,để dáp ứng yêu cầu của mọi hoạt động, sinh hoạt, phong trào thi đua khen thưởng Nhiều lúc hiệu trưởng phải tốn nhiều thời gian, công sức trong công tác giao dịch bên ngoài. Cho nên hiệu trưởng khoán trắng công tác kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên cho phó hiệu trưởng chuyên môn. Chính vì thế chất lượng giáo dục, giảng dạy của đội ngũ giáo viên chưa cao, hoạt động thiếu đồng bộ, cầm chừng, phong trào mũi nhọn trong nhà trường thấp ( giáo viên giỏi, học sinh giỏi các cấp ít). Học sinh khi rời ghế nhà trường kiến thức thấp, đạo đức tác phong, nền nếp, phong cách sống chưa chuẩn mực. Nói chung nhân cách học sinh chưa được phát triển .
 Xuất phát từ tình hình trên, xác định đúng chức năng và nhiệm vụ của người hiệu trưởng trong nhà trường, qua thực tiễn công tác bản thân tôi rút ra bài học cho mình trong quá trình kiểm tra mọi hoạt độnh giáo dục trong nhà trường “ kiểm tra nội bộ trường học” nói chung “ kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên” nói riêng là công việc rất quan trọng của người hiệu trưởng không thể thiếu, hoặc xem nhẹ. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy, giáo dục của đội ngũ giáo viên trong nhà trườg ngày càng một tốt hơn, nhất thiết người hiệu trưởng phải đưa công tác “ kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên” lên vị trí thứ ba trong toàn bộ chức năng nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo, điều hành đơn vị.
 2/Mục đích kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên:
 Kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên nhằm mục đích:
a) Kiểm soát và phát hiện các chức năng đầu tiên của hoạt động kiểm tra nhằm xác định thực chất hiệu quả giáo dục. Kiểm soát đúng sẽ phát hiện được các mặt ưu, khuyết của đối tượng quản lý, giúp cho hiệu trưởng làm tốt công tác điều khiển, định hướng trong chỉ đạo.
b) Động viên phê phán: mang thuộc tính tâm lý xã hội. Kiểm tra thường xuyên mới nắm được đầy đủ tư tưởng, tình cảm, tài năng, đức độ thầy và trò. Bản thân hoạt động kiểm tra đã mang tính chất động viên, phê phán đối tượng quản lý. Khi kiểm tra giáo viên và học sinh chắc chắn phải nổ lực phấn đấu trong giảng dạy và học tập để đạt kết quả tốt hơn.
 c) Đánh giá: Nhằm đo lường, xác định hiệu quả của việc dạy và học, xác định được năng lực, trình độ sư phạm của thầy và nền nếp học tập của trò.
 Đánh giá còn thẩm định những yếu tố chủ quan, những lệch lạc, sơ hở để giúp cho hiệu trưởng uốn nắn, điều chỉnh các quyết định, nhằm đảm bảo chu trình quản lý được liên tục và đạt hiệu quả cao.
 d) Thu thập thông tin: Chỉ có kiểm tra mới nắm được thông tin đáng tin cậy. Việc xử lý các thông tin đáng tin cậy kịp thời, đúng đắn giúp cho hiệu trưởng tác động kịp thời vào các tổ chức, điều chỉnh kế hoạch giảng dạy và ra quyết định cho chu trình quản lý mới sát hợp.
 3/ Đối tượng, phạm vi kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên:
 Đối tượng kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên chính là thầy, cô giáo và học sinh trong nhà trường. Ngoài ra cũng cần lưu ý một số đối tượng khác để thấy được mối tương tác của chúng với nhau.
 4/ Nguyên tắc kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên:
 Người hiệu trưởng phải nắm vững nguyên tắc trong quản lý giáo dục nói chung và đặc biệt là phải nắm vững nội dung, kiến thức và phương pháp đặc trương của từng phân môn giảng dạy. Ngoài ra cũng phải nắm vững nguyên tắc tính Đảng, tính khoa học, tính kế hoạch, tính dân chủ, tính thực tiễn
 Kiểm tra là loại hình đa dạng, phức tạp. Đối tượng kiểm tra là con người, mục đích của kiểm tra là vì sự tiến bộ của con người. Do đó, không thể kiểm tra tùy hứng, khi kiểm tra cần phải coi trọng một số nguyên tắc sau:
Nguyên tắc pháp chế: Có 2 yếu tố.
 - Phù hợp với cơ chế tổ chức, đó là “ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Thực hiện đúng cơ chế này là đảm bảo được tinh thần “ tập trung dân chủ” trong kiểm tra vừa xuất phát từ nguyên tắc có tính pháp lệnh, quy chế tổ chức, vừa đảm bảo và phát huy tính chủ động, sáng tạo của giáo viên; ý thức được vai trò, chức năng nhệm vụ của bản thân mình trong hệ thống nhiệm vụ chung của nhà trường.
 -Phù hợp với cơ chế quản lý:Phải biết xác định cho chủ thể kiểm tra ( hiệu trưởng ) và khách thể kiểm tra ( giáo viên ) có nhận thức đúng đắn về công tác kiểm tra. Kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên chính là một hoạt động vừa để đánh giá đúng lao động sư phạm của giáo viên, vừa tự kiểm tra, điều chỉnh quyết định của mình ( hiệu trưởng ).
 Cho nên, để phù hợp với cơ chế quản lý, khi kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên, hiệu trưởng phải gắn với kế hoạch. Đánh giá được mức độ hoàn thành về cả vật chất và số lượng, chất lượng. Tiêu chuẩn phải yêu cầu trên kế hoạch được lượng hóa một cách cụ thể bằng những đơn vị chuẩn rõ ràng.
 b) Nguyên tắc về tính hiệu quả: 
 Kiểm tra không phải để kiểm tra, mà kiểm tra tức là để thực hiện chức năng quản lý của người hiệu trưởng tác động đến giáo viên để đạt một hiệu quả nhất định. Tính hiệu quả trong kiểm tra thể hiện trên hai bình diện nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và hiệu quả các hoạt động quản lý. Vì thế, với nguyên tắc này trong kiểm tra phải hội đủ 2 yếu tố: 
 - Khách quan, thiết thực: Là sự đáp ứng được yêu cầu bức thiết của đối tượng, phải thực sự giúp đỡ đối tượng hoàn thành nhiệm vụ được giao, thực hiện sự đóng góp vào việc cải tiến quản lý về chuyên môn. 
 - Có kế hoạch: Kế hoạch kiểm tra phải phù hợp với kế hoạch chung của nhà trường. Thiết kế kế hoạch kiểm tra phải mang tính khoa học, có qui trình cụ thể, rõ ràng, kiểm tra ai? kiểm ta nội dung gì? kiểm tra như thế nào? ( các biện pháp tổ chức thực hiện, thời gian tiến hành, thời gian kết thúc ) và kiểm tra nhằm mục đích gì? 
 c) Nguyên tắc tính thuyết phục: 
 Qua kiểm tra và sau khi kiểm tra vấn đề quan trọng là chủ thể kiểm tra để lại dấu ấn gì nơi đối tượng kiểm tra.“ Dấu ấn” ấy chính là tính thuyết phục đối tượng. Thuyết phục được đối tượng kiểm tra nhận biết được vấn đề một cách đúng đắn. Yêu cầu về chủ thể kiểm tra phải biết vận dụng kết hợp một cách khéo léo, nhuần nhuyễn giữa tính khoa học và tính nghệ thuật. Tính khoa học là trên cơ sở thực tế khách quan và tính nghệ thuật là sự chủ quan tâm lý, thiện chí, tình cảm, sự hiểu biết giữa chủ thể và khách thể. 
 Nói tóm lại, hoạt động kiểm tra là sự tác động qua lại giữa người với người. Càng có tính người bao nhiêu, hiệu quả thiết phục của người kiểm tra càng cao bấy nhiêu.
 5/ Phương pháp kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên:
 Trong thời gian kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên, người hiệu trưởng có thể vận dụng nhiều phương pháp để kiểm tra. Song, việc lựa chọn phương pháp phải phụ thuộc vào mục đích, nhiệm vụ, thời gian, hoàn cảnh và đối tượng được kiểm tra. Thường có những phương pháp kiểm tra sau:
 a) Phương pháp phân tích hồ sơ sổ sách chuyên môn;
 Tùy theo mục đích yêu cầu để chọn hồ sơ chuyên môn kiểm tra phân tích. Có thể kiểm tra toàn diện các loại hồ sơ, sổ sách hoặc chỉ kiểm ta một, vài loại nào đó (thường là giáo án), có phân loại mục đích kiểm tra. Kiểm tra để xây dựng hay kiểm tra để đánh giá xếp loại.
 Với phương pháp này cần chuẩn bị những mẫu sẵn để thu thập thông tin, trên cơ sở đó mà có những kết luận cụ thể, có cơ sở thực tế rõ ràng.
Phương pháp quan sát: Có 2 loại quan sát:
 - Quan sát tĩnh: Là quan sát về cơ sở vật chất kỹ thuật phương tiện phục vụ cho việc dạy học, không khí môi trường sư phạm xung quanh: lớp học, bàn ghế, giáo viên, học sinh, bảng viết 
 - Quan sát động: Là quan sát các hoạt động thực tế đang diễn ra trong giờ học như: Cách tổ chức một tiết dạy của giáo viên, phương pháp dạy, mối quan hệ trong hoạt động giữa thầy và trò.
 c) Phương pháp tham khảo ý kiến “ Trong” của đối tượng được kiểm tra.
 Đây là phương pháp để cho đối tượng được kiểm tra quá trình thực hiện công tác chuyên môn của mình, được tự kiểm tra lấy chính mình và tự nhận định kết quả công việc của mình. Trên cơ sở đó phân tích nguyên nhân của sự thành công và thất bại, rút ra được những bài học kinh nghiệm, điều chỉnh kịp thời những sai lệch để xây dựng phương hướng hoạt động công tác của mình đạt hiệu quả tối ưu. Phương pháp này được thực hiện dưới các dạng sau:
 - Bảng kiểm điểm công tác cá nhân;
 - Bằng phiếu trắc nghiệm ( viết hay trả lời miệng );
 - Bằng những cuộc trao đổi, mạn đàm trực tiếp giữa hiệu trưởng vvà giao viên được kiểm tra.
 Để thực hiện phương pháp này hiệu trưởng cần lưu ý:
 + Nắm sát đối tượng ( hoàn cảnh, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, ý thức tổ chức kỷ luật, trách nhiệm ).
 + Phải tôn trọng ý kiến của cá nhân tự đánh giá. Songkhi có sự phát hiện những vấn đề chưa thật sự chính xác, thiếu cơ sở. Hiệu trưởng cần có sự kiểm tra kỹ lưỡng, không kết luận vội vàng.
 + Hết sức khéo léo, tế nhị, thẳng thắn nhưng đầy thiện chí khi bàn bạc trao đổi, góp ý, đánh giá vấn đề. cần thiết tạo được bầu không khí thoải mái, thân mật, nhằm mục đích làm cho đối tượng tiếp thu được vấn đề trên cơ sở có lý, có tình. Biết khắc phục và có hướng vươn lên.
 d) Phương pháp tham khảo ý kiến (Ngoài) của đố tượng được kiểm tra.
 Đây là hệ thống phương pháp nhằm mục đích tìm hiểu, bổ sung thẩm tra cho việc tham khảo ý kiến được hoàn chỉnh. Việc tìm hiểu này được tiến hành ở các bộ phận chức năng như: Tổ chuyên môn, thiết bị, các đoàn thể, phụ huynh học sinh Có liên quan đến hiệu qua công việc của đối tượng kiểm tra.
 d) Phương pháp xử lý thông tin tổng hợp.
	Trên cơ sở việc thu thập thông tin riêng rẽ trong quá trình kiểm tra, hiệu trưởng tổng hợp các thông tin tiếp nhận theo từng vấn đề, sau đó liên kết các vấn đề lại với nhau để co cái nhìn toàn cục.
	Kết quả việc xử lý thông tin phải đánh giá được mức độ thành công hay thất bại của đối tượng được được kiểm tra để điều chỉnh được những sai lệch của mình.
	Việc xử lý thông tin có thể được tiến hành:
 - Sau mỗi đợt kiểm tra: có thể báo trước và không trước.
 - Sau mỗi học kỳ, cả năm.
 * Tóm lại: Kiểm tra là một chức năng quan trọng của người quản lý nên phương pháp kiểm tra phải thể hiện rõ nét đặt trưng của các phương pháp kiểm tra. Cần phải sử dụng phương pháp mệnh lệnh tổ chức hành chính, khi nào phải sử dụng phương pháp đòn bẩy, kích thích và khi nào cần có phương pháp vận động, giáo dục động viên thiết phục Và khi nào là sự tổng hợp của các phương pháp nhằm đến mục đích cuối cùng: tính hiệu quả của hoạt động mình đang thực hiện.	
 6/ Nội dung kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên:
 a) Kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên là góp phần tác động để họ làm tốt quá trình giảng dạy và giáo dục, đồng thời xây dựng không khí sư phạm. Hàng năm, mỗi giáo viên được kiểm tra các công việc sau:
	- Kiểm tra kế hoạch công tác sư phạm gồm 3 nội dung chính:
	- Kế hoạch giảng dạy dựa theo phân phối chương trình bộ môn văn hoá, phối hợp kế hoạch năm học của nhà trường. 
	- Kế hoạch chủ nhiệm lớp nhằm phân loại học sinh, dự kiến các biện pháp giáo dục cho từng học sinh.
	- Kế hoạch tự bồi dưỡng chuyên môn:
	 * Kiểm tra giáo án ( thiết kế bài dạy)
	 * Số giờ dự và tích luỹ kinh nghiệm.
	 * Kiểm tra sổ nghị quyết cá nhân của giáo viên.
 b) Kiểm tra giờ dạy trên lớp của giáo viên.Có các hình thức kiểm tra sau:
	- Kiểm tra báo trước.
	- Kiểm tra không báo trước.
	- Kiểm tra liên tục cả buổi học ở cùng một lớp nhằm để giúp cho hiệu trưởng nghiên cứu tính thống nhất trong giáo dục của giáo viên đối với các lớp học.
	- Dự giờ theo chuyên đề.
 c) Kiểm tra ngày giờ công của giáo viên.
 d) Kiểm tra việc thực hiện chương trình.
 đ) Kiểm tra tập vở của học sinh.
 e) Kiểm tra việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên.
 g) Kiểm tra qua nền nếp sinh hoạt tổ chức chuyên môn của giáo viên.
 h) Kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ khác.
II/ NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Chương I: 	Cơ sở lý luận
 1/ Cơ sở pháp lý:
	- Điều 22 chương VI của qui chế tổ chức hoạt động của tổ chức thanh tra giáo dục ( Ban hành quyết định số: 478/GD ngày 11 tháng 3 năm 1993) ghi rõ trách nhiệm kiểm tra nội bộ trong trường học như sau: 
	“ Hiệu trưởng các trường, thủ trưởng các sở đào tạo trong ngành có trách nhiệm sử dụng bộ máy quản lý vào các cán bộ trong đơn vị để kiểm tra việc thực hiện các chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch của cá nhân và các bộ phận thuộc quyền, xét và giải quyết các khiếu nại, tổ chức về các vấn đề thuộc trách nhiệm quản lý của mình. 
	Các hoạt động kiểm tra được thực hiện thường xuyên, công khai, dân chủ, kết quả được ghi nhận bằng biên bản và được lưu trữ, hiệu trưởng hay thủ trưởng phải chịu trách nhiệm về các kết luận kiểm tra này.
 - Điều 1 và 2 mục IV của Thông tư số 13/GD-ĐT ngày 12 tháng 9 năm 1994- Hướng dẫn tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục tiểu học theo quy chế ban hành tại quyết định một nội dung của công tác quản lý hiệu trưởng, có liên hệ mật thiết đến công tác thanh tra của Phòng Giáo dục- Đào tạo. Thanh tra Phòng Giáo dục-Đào tạo hướng dẫn kiểm tra các hoạt động tự kiểm tra này, hiệu trưởng chuẩn bị nội dung, báo cáo trước hội nghị hội đồng sư phạm với chủ toạ của một thành viên do hội đồng đề nghị “ Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng hoặc tổ trưởng chuyên môn được hiệu trưởng uỷ quyền định kỳ kiểm tra mỗi giáo viên ít nhất 1 lần trong năm học, đánh giá giáo viên về năng lực sư phạm, việc thực hiện quy chế chuyên môn, chăm sóc giúp đỡ học sinh và kết quả đạt được của học sinh trên các mặt giáo dục.
	Mỗi lần kiểm tra, sau khi dự giờ dạy của giáo viên, xem xét hồ sơ tài liệu cần thiết, kiểm tra chất lượng của học sinh, người kiểm tra rút kết luận đánh giá xếp giáo viên vào 1 trong 3 mức: Tốt. đạt yêu cầu và chưa đạt yêu cầu.
 - Thông tư số 07/2004/TT- BGD&ĐT, ngày 30/3/2004 “hướng dẫn thanh tra hoạt động sư phạm của giáo viên phổ thông” .
	Điều 4 mục II phần A của thông tư ghi: Công tác quản lý của hiệu trưởng có ghi:
	+ Mỗi năm học, hiệu trưởng phải tiến hành kiểm tra toàn diện 1/3 tổng số giáo viên và tất cả giáo viên còn lại được kiểm tra theo chuyên đề. Xem xét hồ sơ kiểm tra và việc xử lý kết quả kiểm tra của hiệu trưởng. 
 2/ Cơ sở lý luận:
Kiểm tra vừa là điều tra, xem xét, đánh giá một quá trình hoạt động sư phạm, vừa là tự kiểm tra đánh giá các quýêt định của người quản lý. Chức năng kiểm tra không chỉ tiến tới xếp loại bình bầu mà còn nhằm xác định phương hướng, mục tiêu, điều chỉnh kế hoạch cho một quyết định mới. 
Bản chất của vấn đề này là thực hiện mối liên hệ nghịch giữa người quản lý và các đối tượng quản lý . 
Kiểm tra là một hoạt động khoa học không phải ai cũng tiến hành được mà phải có nhiệp vụ khoa học, chuyên ngành một cách tổng quát, kiểm tra được hiểu như sau: 
 a) Kiểm tra là một chức năng quản lý của người hiệu trưởng, nhằm kiểm tra, theo dõi, xem xét, đánh giá cho các hoạt động sư phạm trong phạm vi nội bộ nhà trường xác định kết quả dạy và học có phù hợp với mục tiêu, kế hoạch, nội dung, quy chế đã đề ra hay không?.
 b) Đánh giá các hoạt động dạy và hiệu quả, đưa nhà trường tiếp cận với mục tiêu giáo dục .
 c) Hiệu trưởng trường học là người ra quyết định tổ chức và chỉ đạo kiểm tra đánh giá, đưa hoạt động kiểm tra tiến tới hiệu quả cao nhất. Hiệu trưởng kiểm tra trong nhà trường cũng chính là tự kiểm tra hoạt động quản lý của mình.
 3/ Cơ sở thực tiễn:
Trong tình hình hiện nay, thực hiện đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng hiêụ quả giáo dục toàn diện trong nhà trường đáp ứng yêu cầu thực hiện công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước đòi hỏi người cán bộ quản lý giáo dục, trước hết là hiệu trưởng phải thực hiện tốt công tác kiểm tra nội bộ, trong đó đặc biệt chú trọng công tác kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh, có như thế mới đảm bảo hoạt động có hiệu quả mà còn là một yêu cầu phẩm chất của người hiệu trưởng, chống bệnh quan liêu.
Chương II:	Thực trạng hiệu trưởng kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên Trường Tiểu học Hoà Định Đông.
 1/ Khái quát phạm vi.
	Đối tượng kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên chính là thầy cô giáo và học sinh trong nhà trường. Ngoài ra cũng lưu ý một số đối tượng khác trong nhà trường để thấy được mối tương tác với nhau.
	Mỗi năm học nhà trường kiểm tra toàn diện 1/3 giáo viên và 100% tổ chuyên môn, số giáo viên còn lại được kiểm tra theo chuyên đề.
 2/ Thực trạng hiệu trưởng kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên.
	Trong thời gian qua, với tư cách là hiệu trưởng nhà trường bản thân tôi đã xây dựng, tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên cụ thể như sau:
 a) Về nhận thức vấn đề.
	 Xác định cho mình và hội đồng sư phạm nhà trường có ý thức đúng về tầm quan trọng và cần thiết của công tác kiểm tra nền nếp giảng dạy của giáo viên.
 Xây dựng nền nếp giảng dạy là công việc trọng tâm của người lãnh đạo nhà trường. Với người hiệu trưởng muốn làm tốt vai trò trách nhiệm của mình thì điều kiện cần có và đủ là phải biết chỉ đạo tổ chức cho nền nếp này được xây dựng và phát huy. Đồng thời cũng phải biết tạo mọi điều kiện thuận lợi trong khả năng thực tế của mình để cho mọi người tổ chức giảng dạy phát huy được hiệu quả công tác một cách tối ưu. Tất nhiên lãnh đạo thì phải có kiểm tra. Kiểm tra để đánh giá thực lực, khả năng lao động sư phạm của người giáo viên để xác định hiệu quả quản lý của mình, để điều chỉnh độ lệch trong quyết định quản lý và trong thừa hành. Với người giáo viên việc kiểm tra nền nếp giảng dạy là không ngoài mục đích tự giúp mình và giúp người trong công tác chuyên môn. Qua kiểm tra để thấy rõ hơn về hiệu quả công tác của mình, kiểm tra không gây cho mình mặc cảm, tự tôn, cũng không làm cho mình mặc cảm, tự ti. Kiểm tra là điều kiện giúp mình và mọi người cùng tiến bộ.
 b) Các bước tiến hành xây dựng và tổ chức thực h

File đính kèm:

  • docSKKN HIEU TRUONG KTNN GIANG DAY CUA GV.doc