Hình thức thảo luận nhóm và sử dụng trò chơi trong dạy học môn Văn ở trường THCS

Trong những năm gần đây vấn đề đổi mới phương pháp dạy học luôn được bàn luận một cách sôi nổi, đó là vấn đề quan trọng luôn được đề cập trong mỗi cuộc họp chuyên môn ở tất cả các trường học trên cả nước.Với bộ môn văn cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó.

 Nghị quyết hội nghị lần II BCH TW Đảng khóa VIII nêu rõ : “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học” ; “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động , sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.

Trước kia phương pháp dạy – học văn cổ truyền chính là giảng văn và phân tích các nội dung trong bài học, có lẽ đây là hình thức duy nhất để tiếp cận văn bản.Tuy có những thành công nhất định thì vẫn là thầy phân tích –trò tiếp nhận. Dù có thành công nhưng vẫn là áp đặt cách hiểu, cách cảm thụ cho học sinh và lâu dần sẽ dẫn tới sự nhàm chán không thích tìm tòi, sáng tạo của các em. Chính điều đó đòi hỏi phải có những phương pháp cải tiến trong việc dạy –học văn trong nhà trường,đây là nhu cầu thiết yếu đối với các nhà giáo dục và đội ngũ giáo viên giảng dạy môn văn.Chúng ta biết rằng môn văn là môn cơ bản góp phần hình thành nhân cách học sinh,đặc biệt đối tượng của môn văn là những tác phẩm văn thơ,mà văn thơ lại là nghệ thuật của ngôn từ. Vì vậy với đối tượng học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số mà giáo viên chỉ phân tích, diễn giảng thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Chính vì vậy để thực hiện một giờ học có hiệu quả thì người giáo viên cần phải sử dụng nhiều phương pháp như: phân tích, diễn giảng,vấn đáp,nêu vấn đề,gợi ý và đặc biệt để tạo một giờ học phong phú, sinh động thì việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm sẽ giúp học sinh trao đổi ý với nhau, bổ sung cho nhau các kiến thức còn thiếu, học sinh sẽ sôi nổi hơn trong học tập. Còn việc lồng ghép một số trò chơi trong quá trình giảng dạy sẽ giúp học sinh cảm thấy hứng thú, tích cực, sôi nổi hơn đỡ nhàm chán trong một tiết học văn.

 

doc14 trang | Chia sẻ: giaoanmamnon | Lượt xem: 3324 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình thức thảo luận nhóm và sử dụng trò chơi trong dạy học môn Văn ở trường THCS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN THÔÙI BÌNH
 TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ KHAÙNH THÔÙI
HÌNH THỨC THẢO LUẬN NHÓM VÀ SỬ DỤNG TRÒ CHƠI TRONG DẠY HỌC MÔN VĂN Ở TRƯỜNG THCS
 &
 Người biên soạn: LEÂ HOAØNG DANH
 Đơn vị: TRƯỜNG THCS KHAÙNH THÔÙI
 Năm học :2008-2009
	CẤU TRÚC SKKN
 A. Đặt vấn đề.
 I. Cơ sở lí luận.
 II. Cơ sở thực tiễn.
 1. Đối với giáo viên.
 2. Đối với học sinh.
 B. Giải quyết vấn đề:
 I. Các hình thức thảo luận nhóm, 
 sử dụng trò chơi trong dạy học môn văn.
 1. Hình thức thảo luận nhóm.
 1.1. Cách thức tổ chức.
 1.2. Chuẩn bị của giáo viên.
 1.3. Chuẩn bị của học sinh.
 2. Hình thức sử dụng trò chơi.
 2.1.Cách thức tổ chức.
 2.2.Chuẩn bị của giáo viên.
 2.3.Chuẩn bị của học sinh.
	 II.Phạm vi áp dụng.
 III. Bài dạy thực nghiệm.
 IV. Kết quả.
 C. Kết luận và kiến nghị
 A.ĐẶT VẤN ĐỀ
 I. Cơ sở lí luận:
 Trong những năm gần đây vấn đề đổi mới phương pháp dạy học luôn được bàn luận một cách sôi nổi, đó là vấn đề quan trọng luôn được đề cập trong mỗi cuộc họp chuyên môn ở tất cả các trường học trên cả nước.Với bộ môn văn cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó.
 Nghị quyết hội nghị lần II BCH TW Đảng khóa VIII nêu rõ : “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học” ; “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động , sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Trước kia phương pháp dạy – học văn cổ truyền chính là giảng văn và phân tích các nội dung trong bài học, có lẽ đây là hình thức duy nhất để tiếp cận văn bản.Tuy có những thành công nhất định thì vẫn là thầy phân tích –trò tiếp nhận. Dù có thành công nhưng vẫn là áp đặt cách hiểu, cách cảm thụ cho học sinh và lâu dần sẽ dẫn tới sự nhàm chán không thích tìm tòi, sáng tạo của các em. Chính điều đó đòi hỏi phải có những phương pháp cải tiến trong việc dạy –học văn trong nhà trường,đây là nhu cầu thiết yếu đối với các nhà giáo dục và đội ngũ giáo viên giảng dạy môn văn.Chúng ta biết rằng môn văn là môn cơ bản góp phần hình thành nhân cách học sinh,đặc biệt đối tượng của môn văn là những tác phẩm văn thơ,mà văn thơ lại là nghệ thuật của ngôn từ. Vì vậy với đối tượng học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số mà giáo viên chỉ phân tích, diễn giảng thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Chính vì vậy để thực hiện một giờ học có hiệu quả thì người giáo viên cần phải sử dụng nhiều phương pháp như: phân tích, diễn giảng,vấn đáp,nêu vấn đề,gợi ý và đặc biệt để tạo một giờ học phong phú, sinh động thì việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm sẽ giúp học sinh trao đổi ý với nhau, bổ sung cho nhau các kiến thức còn thiếu, học sinh sẽ sôi nổi hơn trong học tập. Còn việc lồng ghép một số trò chơi trong quá trình giảng dạy sẽ giúp học sinh cảm thấy hứng thú, tích cực, sôi nổi hơn đỡ nhàm chán trong một tiết học văn.
 Bất cứ một người giáo viên nào có tâm huyết với nghề đều tự đặt ra câu hỏi làm thế nào để dạy và học tốt môn văn ? Từ xưa đến nay người ta vẫn nói :“Học văn thì dễ nhưng dạy văn thì rất khó” và thực tế cũng chứng minh điều đó. Quả là việc dạy văn vô cùng khó bởi dạy văn không chỉ là dạy đúng, đủ mà còn phải hay, phải lôi cuốn học sinh, làm cho học sinh hứng thú, say mê. Môn ngữ văn là môn học kết tinh nhiều giá trị văn hóa truyền thống và nhân loại, là môn học có ý nghĩa trong việc hình thành, phát triển, định hướng nhân cách cho học sinh và rèn luyện những kỹ năng cơ bản cần thiết cho các em.Mặt khác đây lại là môn học nghệ thuật kích thích trí tưởng tượng bay bổng,sáng tạo của học sinh .Chính điều này làm cho việc dạy văn càng khó hơn, đặc biệt laø đối tượng học sinh vùng sâu .
 Thực tế chúng ta thấy rằng ngày càng có ít học sinh đi thi học sinh giỏi môn văn hơn ,các em cũng cảm thấy chán nản và không mấy hứng thú khi học giờ văn.Chính điều đó đòi hỏi phải có những phương pháp cải tiến trong việc dạy – học văn trong nhà trường .Đây là nhu cầu cần thiết đối với các nhà giáo dục và đội ngũ giáo viên giảng dạy môn văn .Với chức năng là một người làm công tác giảng dạy trong nhà trường bản thân tôi cũng luôn trăn trở là làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học văn.Trong 15 năm công tác giảng dạy tôi nghiệm thấy rằng,cái ước muốn học văn sao cho giỏi,dạy văn sao cho hay ,viết văn sao cho tốt là ước muốn của rất nhiều giáo viên và học sinh.Muốn thực hiện được ước mơ ấy thì chúng ta phải biết tìm tòi,sáng tạo và đưa ra những cái mới hấp dẫn lôi cuốn học sinh,đặc biệt là người giáo viên chúng ta phải biết làm mới bài giảng của mình để kích thích học sinh.
 Phần nội dung thì không thể làm mới,không thể thay đổi nhưng chúng ta có thể thay đổi và làm mới hình thức,phương pháp giảng dạy của mình. Điều này thì chúng ta đã và đang thực hiện lâu nay nhưng cái quan trọng là sự đổi mới của từng người.Với riêng tôi, tôi cũng đã tự rút ra cho mình một vài kinh nghiệm , hy vọng trao đổi cùng đồng nghiệp, mong góp một phần nhỏ kinh nghiệm của mình vào công tác dạy học môn ngữ văn.Đó chính là sử dụng “Hình thức thảo luận nhóm,và tổ chức trò chơi” trong dạy học môn văn ở trường THCS.
II. Cơ sở thực tiễn :
 Chúng ta thấy rằng, việc đổi mới phương pháp dạy học đã đem lại nhiều kết quả khả quan, song bên cạnh những thuận lợi thì chúng ta còn gặp vô vàn những khó khăn .Đặc biệt đối với những giáo viên đang giảng dạy ở huyện vuøng saâu nhö Thôùi Bình.Những khó khăn đó một mặt ở học sinh nhưng cũng một phần ở chính những người giáo viên chúng ta.Môn ngữ văn trong nhà trường có vị trí quan trọng bởi nó giáo dục phẩm chất đạo đức, höôùng ñeán: chaân, thieän, mó ,cung cấp kiến thức tự nhiên và xã hội cho các em nên việc dạy học văn vừa thuận lợi cũng vừa khó khăn:
Đối với giáo viên:
Ít quan taâm vaø ñaàu tö baøi daïy mang tính tích cöïc.
Phöông phaùp giaûng daïy coøn nhieàu haïn cheá.
Caäp nhaät thoâng tin chuyeân moân chöa ñöôïc thöôøng xuyeân .
Vieäc tieáp caän coâng ngheä thoâng tin chöa ñöôïc lieân tuïc.
Coøn naëng phöông phaùp trruyeàn thoáng.
Daïy hoïc coøn aùp ñaët moät chieàu ñoái vôùi hoïc sinh.
Vieäc tích hôïp coøn mang tính göôïng eùp.
Coøn quaù trung thaønh vôùi kieán thöùc vaø caâu hoûi trong saùch giaùo khoa.
1.Đối với học sinh: 
 	Tất cả chúng ta đều thấy rõ một điều, hiện nay học sinh bước chân lên bậc THCS còn rất nhiều em chưa đọc thông viết thạo. Đây là một trở ngại quá lớn khi các em lại tiếp tục phải tìm hiểu, khám phá những kiến thức cao hơn ,rộng lớn hơn ,tröøu tượng hơn.
 Do đặc điểm vùng saâu mà học sinh của chúng ta khả năng tư duy còn rất hạn chế ,hầu như các em chưa có tư duy sáng tạo, tư duy logic.Với các môn học khác các em cố gắng học thuộc, học vẹt những điều đã có ở trong sách giáo khoa , còn bộ môn văn do tính đặc thù đó là một môn học nghệ thuật kích thích trí tưởng tượng sáng tạo của mỗi người học sinh ,môn học mà chất liệu là ngôn từ với những hàm nghĩa sâu xa. Và hiện nay do chương trình vẫn còn những bài dạy dài so với thời lượng từ 45-90 phút nghiên cứu trên lớp nên học sinh lại càng khó tiếp thu hết kiến thức .Chính điều này mà học sinh của chúng ta bị hạn chế rất nhiều trong việc tiếp thu và cảm thụ tác phẩm văn chương .
Thứ hai do trình độ nhận thức của cha mẹ và ngay chính học sinh còn hạn chế. Thực tế còn có nhiều bậc phụ huynh không biết chữ nên phó mặc chuyện học hành của con cái cho nhà trường,ở nhà cha mẹ không hướng dẫn, chỉ bảo được cho con em mình mà chủ yếu là khoán trắng cho các em tự lo. Có cha mẹ còn không muốn con đi học mà chỉ muốn con ở nhà laøm vuoâng , laøm ruoäng, đi làm kiếm tiền.Cũng có cha mẹ đã nhận thức được việc học là quan trọng ,cũng đã có sự quan tâm nhưng sự quan tâm đó cũng chỉ là ‘hãy cố gắng học đi con” rồi để các con tự lo, từ góc học tập cũng chưa lo được cho con,đồ dùng học tập của con cũng không biết có đầy đủ hay không ? Chính vì vậy học sinh ngày càng lơ là hơn trong việc học .
Đặc biệt,chúng ta thấy rằng bộ môn văn là một bộ môn cần đầu tư nhiều thời gian nhất, nhưng đối với học sinh thuộc địa bàn vuøng saâu chúng ta việc đầu tư cho môn văn là điều khó khăn. Bởi học sinh của chúng ta ngoài thời gian học trên lớp ra, về đến nhà là buông sách vở lo lao động, kiếm sống, nhiều em còn là lao động chính trong gia đình, ban ngày lao động vất vả ban đêm các em không thể đầu tư cho học hành được nhiều.Đây là một trở ngại lớn nhất trong quá trình dạy cuûa chúng ta. 
Bên cạnh những vấn đề trên thì trên thực tế vẫn còn một số ít học sinh ham thích môn văn,các em cũng mong muốn trở thành những học sinh giỏi môn văn bằng chứng là vẫn có những học sinh tham dự kì thi học sinh giỏi văn cấp huyện .Tuy nhiên những học sinh này cũng như các học sinh khác gia đình thì khó khăn thiếu tiền hỗ trợ để mua các phương tiện ,tài liệu học tập ,sách tham khảoChính điều này dần dần làm các em ngại và không mấy đầu tư vào môn văn.
Với tất cả những khó khăn trên dẫn tới vấn đề chúng ta dạy học theo phương pháp trên học sinh của chúng ta thực hiện các thao tác chưa được nhanh nhẹn, một số em còn ỷ lại trông chờ bạn bên cạnh trả lời, tư duy ,sáng tạo của các em còn hạn chế nên quá trình thực hiện nội dung bài học còn chậm chạp. 
 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.Các hình thức thảo luận nhóm,sử dụng trò chơi trong dạy học môn văn:
1.Hình thức thảo luận nhóm.
 a/ Cách thức tổ chức.
 Với hình thức thảo luận nhóm thì chúng ta có thể sử dụng trong tất cả các tiết dạy ở tất cả các bài. Còn hình thức tổ chức trò chơi thì chúng ta chỉ có thể áp dụng ở một số bài cho phù hợp ,chứ không phải bài nào cũng đem áp dụng. Tuy nhiên để sử dụng các trò chơi trong một tiết dạy thì bắt buộc trong đó sẽ có hình thức thảo luận nhóm. Khi cho học sinh thảo luận nhóm có rất nhiều cách để chúng ta thực hiện : 
 1. Viết sẵn câu hỏi ra giấy kẻ ngang rồi phát cho học sinh mỗi tổ 1tờ. 
 2. Ghi ra giấy rôki treo lên bảng hoặc bảng phụ,bảng mêka.
 3. Chỉ cho học sinh câu hỏi trong sách và học sinh nhìn vào để thảo luận.
 4.Từ một ý kiến của học sinh tổ chức cho các em thảo luận .
 b/Chuẩn bị của giáo viên:
*Chuẩn bị phương tiện:
- Bảng phụ hoặc giấy rôki,bảng mêka viết bút phốt.
- In hoặc viết sẵn câu hỏi ra giấy A4.
- Câu hỏi phải được viết thẩm mĩ ,khoa học.
 *Chuẩn bị nội dung:
- Câu hỏi thảo luận nên chia nhỏ,câu hỏi khó phải có câu hỏi gợi mở. 
-Nội dung câu hỏi phải rõ ràng ,phù hợp đối tượng học sinh .
-Câu hỏi phải phát huy khả năng tư duy , kích thích khả năng sáng tạo cho học sinh.
- Các câu hỏi chỉ tập trung xoay quanh nội dung chính của bài học.
- Thời gian thảo luận không quá ngắn học sinh không kịp định hình,cũng không quá dài ảnh hưởng tới thời gian tiết học.
- Phân nhóm cho học sinh thảo luận không nên quá ít mà cũng không quá đông.
- Học sinh thảo luận xong giáo viên gọi một hai nhóm trả lời còn lại thu bài về nhà chấm và sửa hôm sau phát lại (tránh mất nhiều thời gian của tiết học).
- Phân công một học sinh nhanh nhẹn làm trưởng nhóm, một học sinh ghi nhanh làm thư kí. 
- Việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm thì có thể sắp xếp bất kì khoảng thời gian nào trong tiết dạy.
 c/ Chuẩn bị của học sinh:
- Phiếu học tập, Đọc kĩ các câu hỏi trong phần bài học.
- Ghi ý kiến của bản thân về các câu hỏi cho là khó.
 *Ví dụ: Khi dạy văn bản: “Chuyện người con gái Nam Xương” để làm rõ hơn nhân cách cao đẹp của nhân vật Vũ Nương chúng ta có thể dùng câu hỏi thảo luận như sau:
? Lời trăng trối của bà mẹ chồng giúp ta hiểu thêm điều gì về Vũ Nương.
 * Hoặc khi dạy văn bản: “Đồng chí” của Chính Hữu để thấy rõ nghệ thuật của bài thơ cũng như sự chuyển ý thơ chúng ta có thể đặt câu hỏi:
? Câu thơ thứ 7 trong bài có điều gì đặc biệt.
 *Đối với bài: “ Bếp lửa” của Bằng Việt: 
? Tại sao tác giả lại viết “Một bếp lửa ấp iu nồng đượm” sau đó dùng câu hỏi gợi: ( từ ấp iu thể hiện hành động như thế nào? Bếp lửa luôn gắn với hình ảnh nào trong bài thơ? Bếp lửa có thể hiện được sự ấp iu không ?....
 *Đối với bài: “Ánh trăng” của Nguyễn Duy : 
? Tư thế, tâm trạng , cảm xúc của tác giả khi đột ngột gặp lại vầng trăng?.........
2.Hình thức sử dụng trò chơi trong dạy học văn.
2.1.Cách thức tổ chức.
Đối với việc sử dụng trò chơi thì chúng ta cũng cần chú ý lựa chọn trò chơi phù hợp với từng nội dung bài dạy và thời gian của tiết học.Có thể sử dụng trò chơi “giải ô chữ” , “rung chuông vàng”, “tiếp sức” 
Ví dụ :để dạy các văn bản ,những tác phẩm truyện chúng ta có thể tổ chức cho học sinh chơi trò chơi : “giải ô chữ” bằng cách kẻ sẵn các ô chữ trên bảng phụ và đưa ra các câu hỏi gợi ý để tìm ra nội dung ,nghệ thuật chính của truyện.Giáo viên cũng có thể tổ chức trò chơi “rung chuông vàng” ở cuối tiết học bằng cách phân chia lớp thành nhiều nhóm và đưa ra những câu hỏi trắc nghiệm để học sinh thảo luận ,nhóm nào trả lời đúng sẽ được điểm tối đa .Hoặc khi dạy các bài tiếng việt chúng ta có thể tổ chức trò chơi “tiếp sức” ví dụ :học sinh này đưa ra ví dụ ,học sinh trong nhóm bổ sung lẫn nhau đến khi rút ra được kết luận thì giáo viên ghi điểm cho nhóm đó.Tuy nhiên phải chú ý một điều khi tổ chức các trò chơi giáo viên cần lưu ý nêu trước thể lệ trò chơi và quy định thời gian cho học sinh biết để thực hiện.Và đặc biệt phải chú ý kết hợp các phương pháp khác để có hiệu quả cao trong tiết dạy. Và khi đưa ra câu hỏi gợi ý trong trò chơi “giải ô chữ” giáo viên phải chú ý sử dụng các câu hỏi gợi mở để học sinh nhanh chóng tìm ra ô chữ không để làm ảnh hưởng đến tiết học và cuối cùng học sinh sẽ tìm ra được từ khóa chính là nội dung bài học ,hoặc một phần của bài học ,ở mỗi một gợi ý tùy học sinh lựa chọn ô chữ để tăng thêm phần sôi nổi , hấp dẫn.Học sinh trong nhóm trả lời không đúng giáo viên có thể gọi em khác tiếp sức thêm tránh để thời gian chết.
 2.2.Chuẩn bị của giáo viên. 
2.2.1.Đọc ,tìm hiểu nội dung bài học.
2.2.2.Xác định nội dung quan trọng nhất cần sử dụng trò chơi.
2.2.3.Sắp xếp các ô chữ trong bảng phụ,nếu dạy ứng dụng công nghệ thông tin chỉ việc cài đặt chế độ trong máy khi giảng dạy thực hiện từng bước với từng câu hỏi.
2.2.4.Hướng dẫn thể lệ , cách thức thực hiện trò chơi.
*Ví dụ: Khi dạy bài “Ôn tập truyện trung đại” để cho giờ học sôi nổi hơn ,học sinh không cảm thấy nhàm chán ,gò bó chúng ta có thể sử dụng trò chơi “Rung chuông vàng” .
 Giáo viên chia lớp thành 4 đội sau đó nêu thể lệ cách thức,quy định của trò chơi.
 Lần lượt nêu các câu hỏi về các tác giả,năm sinh ,quê quán ,nội dung , nghệ thuật của các văn bản đã học.
 Các nhóm trả lời, giáo viên lần lượt loại những học sinh trả lời sai.
 Cuối cùng còn lại học sinh của nhóm nào trả lời đến câu hỏi cuối cùng thì nhóm đó được rung chuông vàng. 
*Hoặc khi dạy bài “Tổng kết về từ vựng” chúng ta có thể sử dụng trò chơi tiếp sức.
 Chia nhóm và công bố thể lệ ,cách thức trò chơi.
 Mỗi nhoùm chuẩn bị một nội dung của bài học.
Lần lượt gọi học sinh trong nhóm trả lời .Nhóm nào trả lời tiếp sức đúng thì đạt điểm tối đa, nhóm nào không tiếp sức được đổi cho nhóm khác và bị điểm trừ.
 *Khi dạy tiết tập làm văn: “ Người kể chuyện trong văn bản tự sự” chúng ta có thể sử dụng trò chơi giải ô chữ để tìm ra ngôi kể thứ nhất và vai trò của ngôi kể thöù nhất.
Trên đây chỉ là một vài ví dụ cụ thể về việc áp dụng các hình thức thảo luận và sử dụng trò chơi trong dạy học văn. Trong chương trình ngữ văn THCS còn rất nhiều bài có thể áp dụng cả hai hình thức trên.
II.Phạm vi áp dụng:
1.Các hình thức trên được áp dụng ở học sinh khối 9 trường THCS Khaùnh Thôùi .
2.Phạm vi áp dụng các hình thức trên với phần văn bản đặc biệt một số văn bản tự sự 2.1.Văn bản: “Chuyện người con gái Nam Xương”.
2.2.Tác phẩm:“Truyện Kiều”.
2.3. Văn bản “Làng”. 
2.4. Văn bản: “Lặng lẽ Sa Pa”.
2.5. Văn bản:“ Chiếc lược ngà”
2.6.Văn bản: “Những ngôi sao xa xôi’. 
2.7. Văn bản: “Bến quê”.
3.Tiếng việt : 
3.1.“ Các phương châm hội thoại” , 
3.2.“Xưng hô trong hội thoại”, .
4.Tập làm văn: 
4.1. Bài: “Miêu tả trong văn tự sự”, 
4.2. Bài: “Đối thoại ,độc thoại .độc thoại nội tâm”, 
4.3. Bài: “Người kể chuyện trong văn tự sự”.
Bài dạy thực nghiệm : tiết 66tập làm văn “người kể chuyện trong văn tự sự” –NV 9 (Học kì I).
III.Bài dạy thực nghiệm:
Tất cả những vấn đề đã nói ở trên chỉ là lý thuyết và để thấy được kết quả cụ thể thì bản thân tôi đã tiến hành thực hiện cụ thể một tiết dạy tập làm văn có sử dụng hình thức thảo luận nhóm và trò chơi như sau:
1.Về phía chuẩn bị của giáo viên:
1.1.Giáo viên thực hiện quy trình lên lớp với bài “người kể chuyện trong văn tự sự” như một tiết dạy bình thường ,trong khi giảng dạy căn cứ từng câu hỏi cho học sinh thảo luận nhóm và chơi các trò chơi.
1.2.Giáo viên dặn dò học sinh chuẩn bị bài ở nhà .
1.3.Lên lớp hướng dẫn cho học sinh biết về hình thức học tập, cách thức tiến hành trò chơi ,thảo luận như thế nào để các em định hình được.
1.4.Nếu dạy bình thường thì giáo viên chuẩn bị một bảng phụ bằng mêca để sử dụng bút phốt còn nếu dạy học ứng dụng công nghệ thông tin thì có sự thuận lợi hơn đó là khi đưa ra các ô chữ chúng ta có thể cho xuất hiện lần lượt với các kiểu chữ khác nhau ,từ chìa khóa có thể được bôi màu ẩn đi khi học sinh trả lời xong mới xuất hiện .Khi học sinh trả lời đúng trên máy chúng ta cài chế độ cổ vũ ,khen thưởng làm học sinh hứng thú hơn . 
 2.Về phía chuẩn bị của học sinh:
2.1.Cần đọc các ví dụ thật kỹ nghiên cứu các câu hỏi trong SGK.
2.2.Có thể chuẩn bị sẵn phiếu học tập và giấy nháp.
 3.Tiến trình bài học:
-Ổn định tổ chức
-Kiểm tra bài cũ: bằng hình thức vấn đáp hoặc trắc nghiệm.
-Bài mới:
*Hoạt động 1:Giới thiệu bài (dẫn vào bài).
*Hoạt động 2: Học sinh đọc đoạn trích SGK trả lời các câu hỏi nhỏ(a,b,c) riêng câu d để kích thích khả năng tư duy của học sinh giáo viên tổ chức phát phiếu học tập trong đó có các câu hỏi gợi ý để học sinh thảo luận trả lời.
*Hoạt động 3: giáo viên đọc đoạn trích qua một lần chia lớp thành 4 nhóm và tổ chức trò chơi “giải ô chữ” để học sinh xác định được nội dung đọan trích ,ngôi kể,vai trò của ngôi kể.
*Hoạt động 4: Giáo viên dùng hình thức vấn đáp để học sinh so sánh vai trò của hai ngôi kể ( ngôi thứ 3 và ngôi thứ nhất ).
 Tuần 14
 Tiết 66 
 Tập làm văn: NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ 
 A.Mục đích yêu cầu: 
- KT:giúp học sinh hiểu và nhận diện được thế nào là người kể chuyện , vai trò và mối quan hệ giữa người kể với ngôi kể trong văn tự sự.
-KN:Rèn luyện kỹ năng nhận diện ngôi kể và chuyển đổi ngôi kể trong văn tự sự.
-TĐ: Nhập vai phù hợp khi kể chuyện , sử dụng ngôi kể thích hợp không lẫn lộn khi viết văn,khi kể chuyện.
-Tích hợp: văn bản “lặng lẽ Sa Pa” tiết luyện vieát cuûa tuaàn 13.
B.Phương pháp: Đàm thoại ,vấn đáp,gợi mở, thảo luận ,sử dụng trò chơi.
C.Chuẩn bị : -GV: bài soạn , tìm hiểu các đoạn văn có các ngôi kể khác nhau, phiếu học tập ,bảng phụ có ô chữ, bút phốt.
 -HS: tìm hiểu các đoạn văn trong SGK ,phiếu học tập.
D.Tiến trình bài dạy:
1.ổn định tổ chức: kiểm tra sĩ số lớp,vệ sinh lớp học.
2.Kiểm tra bài cũ: dùng hình thức vấn đáp:
-GV: Khi kể chuyện người kể thường sử dụng các ngôi kể nào?
Khi người kể xưng “tôi’ trong văn bản thì ngôi kể đó thuộc ngôi kể nào?
-HS: Khi kể chuyện người kể thường sử dụng các ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba để kể chuyện.
Khi người kể xưng “tôi” thì ngôi kể đó thuộc ngôi kể thứ nhất.
 3.Bài mới: giới thiệu bài :
 ở các lớp 6,7,8 các em đã được học về ngôi kể và chuyển đổi ngôi kể .Trong chương trình ngữ văn lớp 9 ,các em tiếp tục được học nâng cao hơn một bước về người kể chuyện và ngôi kể trong văn bản tự sự ,cụ thể như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu giờ học hôm nay.
 *Tiến trình bài học:
*Hoạt động 1: ngữ liệu và phân tích ngữ liệu:
-HS: đọc đoạn trích SGK/192
-GV nêu vấn đề: đoạn trích trên được trích từ văn bản nào ,của tác giả nào?
?Đoạn trích trên kể về ai ? kể về sự việc gì?
?Ai là người kể về các nhân vật và sự việc trên.
? Những dấu hiệu nào cho biết ở đây không phải là các nhân vật trong đoạn trích kể chuyện?( gợi: người kể có xưng tôi hoặc tên của một trong ba nhân vật không?).
-HS: trả lời 
-GV: chốt ý.
? Những câu “giọng cười .tiếc rẻ”, “những người .như vậy” là nhận xét của người nào ,về ai?
-HS: trả lời
-GV:=> đó là lời của người kể chuyện về anh thanh niên và suy nghĩ của anh ta.
 HS: Thảo luận câu d* SGK (3phút)
-GV: gợi ý : căn cứ vào chủ thể

File đính kèm:

  • docSang kien kinh nghiem(8).doc