Đổi mới phương pháp dạy học môn thể dục trong nhà trường THCS

Đảng và nhà nước luôn luôn luôn quan tâm tới công tác Thể dục thể thao nói chung và giáo dục thể chất trong nhà trường nói riêng. Coi sức khoẻ là vốn quí nhất của con người.

 Bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất là phải xây dụng thế hệ trẻ nước ta thành những con người có đủ bản lĩnh, phẩm chất và năng lực để kế thừa và phát huy những thành tựa và truyền thống vẻ vang của dân tộc để đưa đất nước ta phát triển hội nhầp với cộng đồng quốc tế.

 Để giúp cho thế hệ trẻ phát triển toàn diện nhiều mặt trong đó có một mặt quan trọng và tất yếu là chăm lo về sức khoẻ và thể lực, không những là nhu cầu của bản thân con người mà là vốn quí để tạo tài sản vật chất cho xã hội.

 Song song với chương trình giảng dạy các môn khoa học trong nhà trường, nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản, có hệ thống các môn khoa học tự nhiên, xã hội và khoa học kỹ thuật, việc giáo dục thể chất trong nhà trường có vai trò hết sức quan trọng giúp cho học sinh phát triển một cách toàn diện về đức,trí, thể, mỹ Ngoài ra còn giúp cho các em hiểu được một số kiến thức, kĩ năng cơ bản để tập luyện giữ gìn sức khoẻ, năng cao thể lực, góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, thói quen tự giác tập luyện TDTT.

 

doc42 trang | Chia sẻ: giaoanmamnon | Lượt xem: 2453 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đổi mới phương pháp dạy học môn thể dục trong nhà trường THCS, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
 Đảng và nhà nước luôn luôn luôn quan tâm tới công tác Thể dục thể thao nói chung và giáo dục thể chất trong nhà trường nói riêng. Coi sức khoẻ là vốn quí nhất của con người.
 Bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất là phải xây dụng thế hệ trẻ nước ta thành những con người có đủ bản lĩnh, phẩm chất và năng lực để kế thừa và phát huy những thành tựa và truyền thống vẻ vang của dân tộc để đưa đất nước ta phát triển hội nhầp với cộng đồng quốc tế.
 Để giúp cho thế hệ trẻ phát triển toàn diện nhiều mặt trong đó có một mặt quan trọng và tất yếu là chăm lo về sức khoẻ và thể lực, không những là nhu cầu của bản thân con người mà là vốn quí để tạo tài sản vật chất cho xã hội.
 Song song với chương trình giảng dạy các môn khoa học trong nhà trường, nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản, có hệ thống các môn khoa học tự nhiên, xã hội và khoa học kỹ thuật, việc giáo dục thể chất trong nhà trường có vai trò hết sức quan trọng giúp cho học sinh phát triển một cách toàn diện về đức,trí, thể, mỹNgoài ra còn giúp cho các em hiểu được một số kiến thức, kĩ năng cơ bản để tập luyện giữ gìn sức khoẻ, năng cao thể lực, góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, thói quen tự giác tập luyện TDTT.
 Xuất phát từ thực tế giảng dạy của bản thân, từ đặc điểm của việc dạy học môn thể dục ở trường Trung học cơ sở, tôi nhận thấy vấn đề “Đổi mới phương pháp dạy học môn thể dục trong nhà trường Trung học cơ sở” là hết sức thiết thực, bổ ích và tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài này.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 Giúp cho giáo viên cải thiện một số phương pháp trong quá trình giảng dạy thể dục nhằm đưa lượng vận động, thời gian tập luyện của học sinh tăng lên.Đề tài còn tháo gỡ những khó khăn mà giáo viên dạy thể dục dễ mắc phải, đó là việc vi phạm về thời gian ( bởi nội dung học thì nhiều mà thời gian một tiết chỉ có 45 phút). Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu và lựa chọn phương pháp, hình thức dạy – hoc thật hợp lý, đảm bảo về kiến thức, kĩ năng, đảm bảo đủ lượng vận động và số lần tập luyện . Đề tài này hết sức cần thiết không những đối với cá nhân tôi mà còn với tất cả giáo viên giảng dạy bộ môn thể dục ở trường THCS nói chung.
3. ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MĂT LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
 Phương pháp dạy học: là cách thức hoạt động của thầy và trò nhằm đạt được mục tiêu Dạy - Học. Phương pháp dạy học mang tính tích cực, độc lập, sáng tạo. Cần chú ý đến hai yếu tố: Học sinh phải được học trong không khí vui vẻ, phấn khởi, học mà chơi, chơi mà học, học sinh phải được tự do tìm hiểu, suy nghĩ, khám phá và tự tìm tòi ra kiến thức của bài hoc dưới sự dẫn dắt của giáo viên.
- Để làm tốt chức năng giảng dạy và giáo dục của mình đối với giáo viên dạy môn thể dục nói riêng phải có những phẩm chất và năng lực như:Thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiên tiến, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có trình độ văn hoá sâu rộng, có tư duy mới, luôn tìm tòi nghiên cứu để đưa ra phương pháp giảng dạy phù hợp, đáp ứng yêu cầu của bộ môn. Đồng thời, người giáo viên thể dục cần phải có phẩm chất đạo đức, tâm lí tốt,tình cảm cao đẹp và cả ý chí, nghị lực, quyết tâm . Tất cả những đặc điểm đó có liên quan mật thiết với nhau để tạo thành một cấu trúc thống nhất nhằm nâng cao kết quả giảng dạy. 
- Như chúng ta đã biết, thời gian công tác càng lâu thì kinh nghiệm giảng dạy và giáo dục càng được nâng cao thì thể lực càng bị giảm sút theo qui luật của tự nhiên của con người, năng lực làm mẫu động tác bị hạn chế. Để khắc phục sự hạn chế đó, người giáo viên thể dục phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình, đặc biệt là trình độ lí luận về phương pháp khoa học và phương pháp tổ chức.
- Đổi mới phương pháp dạy học xuất phát từ nhu cầu đổi mới sâu sắc nền kinh tế xã hội đang diễn ra trên đất nước ta. Công cuộc đổi mới này này cần những người có bản lĩnh, có năng lực chủ động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, thích ứng với cuộc sống xã hội đang từng ngày đổi mới. Thực tiễn này phải làm cho mục tiêu dạy học phải điều chỉnh kèm theo sự thay đổi về nội dung và phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là đưa ra phương pháp dạy học mới vào nhà trường trên cơ sở phát huy tính tích cực của phương pháp truyền thống để nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả đào tạo của giáo dục.
- Đổi mới phương pháp dạy học phải thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục học sinh THCS, tạo điều kiện và khuyến khích học sinh tự giác học tập, phát huy và vận dụng kiến thức trong bài học vào thực hành luyện tập. Làm được như vậy sẽ phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo của từng học sinh, rèn luyện cho các em trở thành những con người có đủ năng lực, sức khoẻ để tiếp tục học lên Phổ thông trung học hoặc bước vào cuộc sống. .
4. TỔ CHÚC NGHIÊN CỨU
- Thời gian: Từ tháng 8 năm 2011 đến tháng 3 năm 2012
- Đối tượng nghiên cứu : Học sinh khối 8, khối 9 Trường THCS Đức Hiệp
- Địa điểm nghiên cứu : Tại Trường THCS Đức Hiệp
B/ PHẦN II : NỘI DUNG 
 CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Hơn 10 năm qua, thực hiện đổi mới chương trình sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy bậc THCS chất lượng giảng dạy trong nhà trường đã và đang từng bước đạt hiệu quả rõ rệt. Giáo viên đã quen dần với những khái niệm “ Tích cực hoá hoạt động của trò” trong việc lựa chọn phương pháp cũng như thiết kế bài dạy nhằm khơi dậy hứng thú và phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Thầy và trò đều chủ động trong việc tổ chức giờ học cũng như tiếp thu kiến thức. 
 Với đặc trưng của bộ môn thể dục nhằm giáo dục thể chất, nâng cao thể lực cho học sinh, nên việc đổi mới phương pháp ngoài mục tiêu tạo tiết học hứng thú, sôi nổi, hiệu quả còn rèn cho học sinh những kĩ năng cơ bản để tập luyện, giữ gìn sức khoẻ, nâng cao thể lực, góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, thói quen tự giác tập luyện TDTT, giữ gìn vệ sinh. Chính vì vậy việc chuẩn bị cho giờ dạy phải hết sức hợp lí, khoa học, tạo cho trò tâm lí thoả mái, tự tin, yên tâm khi bước vào giờ học là điều hết sức cần thiết. Đó là yêu cầu không khó song nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố : Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho học tập, đặc biệt ý thức, trách nhiệm của người thầy đối với bài dạy.
1.2 CÁCH THỰC HIỆN
- Trước khi thực nghiệm một số bài tập và phương pháp mới tôi tiến hành kiểm tra thực trạng ban đầu tiêu chuẩn rèn luyện thân thể của học sinh gồm những nội dung sau:
 - Chạy 60m (s)
 - Bật xa (cm)
 - Nhảy cao (m)
 - Chạy 500m (ph,s)
Thành tích để xếp loại học sinh áp dụng bảng TIÊU CHUẨN RÈN LUYỆN THÂN THỂ (Áp dụng cho HS THCS)
BẢNG 1 :KẾT QUẢ KIỂM TRA BAN ĐẦU
Nội dung KT
Mức xếp loại
Kết quả kiểm tra (%)
Khối 8
Khối 9
- Chạy 60m (s)
- Nhảy xa (m)
- Nhảy cao (m)
- Chạy 500m (ph,s)
ĐẠT
40,7%
42,8%
- Chạy 60m (s)
- Nhảy xa (m)
- Nhảy cao (m)
- chạy 500m (ph,s)
KHÁ
22,3%
25,7%
- Chạy 60m (s)
- Nhảy xa (m)
- Nhảy cao (m)
- Chạy 500m (ph,s)
GIỎI
14,5%
18,5%
 Sau khi kiểm tra tôi thấy tỉ lệ đạt TCRLTT của học sinh còn rất thấp. 
Là giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm giảng dạy nhưng với sự cố gắng nhiệt tình tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi và qua thực tế giảng dạy, tôi mạnh dạng đưa ra một vài suy nghĩ của mình làm thể nào để dạy và học môn thể dục đạt kết quả cao.
 CHƯƠNG 2 
NỘI DUNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Một số giải pháp đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng
2.1.NGHIÊN CỨU TÀI LIỆU CHUYÊN MÔN 
- Không ngừng nghiên cứu tài liệu chuyên môn nghiệp vụ mang tính chất khoa học và lí luận nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết về chương trình, cấp học và bậc học, từ đó đưa ra giải pháp phù hợp đối với đối tượng học sinh tại trường mình.
2.2 THAM KHẢO TÀI LIỆU LIÊN QUAN 
- Nghiên cứu các tài liệu về sự phát triển tâm sinh lí lứa tuổi học sinh bậc THCS để có cách nhìn nhận đúng đắn, từ đó tìm ra phương pháp giáo dục phù hợp, có hiệu quả.
2.3 HỌC TẬP BỒI DƯỠNG CHUYÊN MÔN 
- Không ngừng học tập trau dồi kiến thức chuyên môn thông qua các nội dung học tập, bồi dưỡng thường xuyên, tập huấn thường kì do các cấp tổ chức.
2.4 DỰ GIỜ HỌC HỎI 
- Tích cực dự giờ, học hỏi, rút kinh nghiệm từ đồng nghiệp, nhất là những đồng nghiệp có kiến thức, chuyên môn vững vàng, tham dự các chuyên đề và các hội nghị tập huấn do cụm, trường, phòng giáo dục tổ chức. Ghi chép tích luỹ những kinh nghiệm học tập được từ bạn bè đồng nghiệp và qua các thông tin đại chúng. Trong trường thường xuyên dự giờ các giáo viên có cùng chuyên môn, ngoài ra còn dự giờ các giáo viên khác để học hỏi thêm về phương pháp tổ chức các hoạt động, cách sử dụng đồ dùng, cách sử lí tình huống sư phạm
2.5.VẬN DUNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP 
- Nghiên cứu kĩ tài liệu giảng dạy, vận dụng linh hoạt và sáng tạo các phương pháp dạy học tích cực.
-Việc đổi mới phương pháp giảng dạy học sẽ đem lại những tác động rất lớn, thường để lại những ấn tượng sâu sắc trong nhận thức và tình cảm của học sinh. Nó kích thích sự say mê, hứng thú luyện tập đối với môn thể dục, học sinh tích cực tập luyện thu được những tri thức mới, hình thành những kĩ năng, kĩ xảo vận động, vận dụng được vào thực tiễn cuộc sống những phưong pháp hay, những hình thức tổ chức hấp dẫn sẽ không dễ phai mờ trong kí ức học sinh.
-Song song với việc thực hiện nghiêm túc những nội dung đã được qui định trong chương trình, giáo viên cần nghiêng cứu và vận dụng đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới các hình thức tổ chức hoạt động trên lớp sao cho khoa học, linh hoạt, sáng tạo, một trong các hướng đó là:
2.5.1. Chuẩn bị và soạn bài.
 *. Chuẩn bị:
- Nghiên cứu tài liệu, sách giáo viên và hướng dẫn giảng dạy để xác định mục tiêu của bài dạy, nội dung của tiết học trên cơ sở đó xác định việc chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ, sân bãi cho chu đáo và phù hợp.
- Nghiên cứu tài liệu, sách giáo viên và hương dẫn giảng dạy để xác định mục tiêu của bài dạy, nội dung của tiết học trên cơ sở đó xác định việc chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ, sân bãi.
- Nghiên cứu để vận dụng các hình thức tổ chức, các phương pháp dạy học cho phù hợp với tiết dạy.
- Trên cơ sở xác định được mục tiêu của bài học, giáo viên chuẩn bị sân tập, hố cát và những đồ dùng dạy học có liên quan như: tranh vẽ các động tác thể dục, xà nhảy, đệm nhảy, bóng ..., nhắc nhở học sinh ngay từ cuối tiết học trước để các em chuẩn bị trang phục và dụng cụ học tập, tạo điều kiện để tiết dạy đạt hiệu quả cao. 
*. Bài soạn:
- Bài dạy cần soạn trước ít nhất hai ngày để có sự chuẩn bị đồ dùng và nhắc nhở học sinh những nội dung cần thiết. Bài soạn phải thể hiện rõ ràng, khoa học, chính xác các hoạt động của thầy và trò trong việc đổi mới phương pháp dạy học.
- Hệ thống câu hỏi dẫn dắt gợi mở, lôgic, dễ hiểu, thu hút được sự quan tâm chú ý của học sinh, tránh hỏi câu hỏi quá dài, câu hỏi đóng, cần dự kiến và phân loại câu hỏi đúng với từng đối tượng học sinh, câu hỏi dễ dành cho học sinh yếu và trung bình, câu hỏi khó đào sâu suy nghĩ dành cho học sinh khá, giỏi.
- Bài soạn cần thể hiện rõ các hoạt động với thời gian và khối lượng vận động, người chỉ đạo hoạt động do giáo viên hay cán sự lớp, tổ trưởng, nhóm trưởng.
 Ví dụ: Bài tiết 58 – Lớp 8 ,Trong phần cơ bản, hoạt động ôn động tác nhảy cao
NỘI DUNG
Định lượng
HOẠT ĐÔNG CUA
 THẦY - TRÒ
1. Nhảy cao:
a. Ôn động tác bổ trợ : 
- Bật cao bằng 2 chân 3 nhịp và 5 nhịp, nhịp cuối bật cao co chân
-Chạy đà – đặt chân vào điểm giậm nhảy.Giậm nhảy đá lăng
b.Học giai đoạn qua xà và tiếp đất
-Chạy đà giậm nhảy qua xà thấp
- Phối hợp 4 giai đoạn nhảy cao
15phút
 5 phút
2-4lần
2-3lần
10phút
2-3lần
2-3lần
- Giáo viên chỉ đạo lớp thực hiện:
- Tổ 3 và tổ 4 đứng tại chỗ bật cao bằng 2 chân 3 nhịp và 5 nhịp, nhịp cuối bật cao co chân.
-Tổ 1 và tổ 2: Tập bổ trợ đà ba bước giậm nhảy đá lăng, chạy đà đặt chân vào điểm giậm nhảy, giậm nhảy đá lăng.
- Chú ý: Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện kết hợp với quan sát cả nhóm tổ 3 và 4. Sau 2-5 phút đổi nội dung, thực hiện giữa hai nhóm. 
- Giáo viên làm mẫu động tác hoặc cho hs quan sát tranh vẽ kĩ thuật 
- Giáo viên chỉ đạo lớp thực hiện:
-Chạy đà giậm nhảy qua xà thấp sau đó nâng dần mức xà lên cao 
-GV nhắc nhỡ và sữa sai cho hs.
 2.5.2. Các biện pháp thực hiện trên lớp:
2.5.2.1. Khâu kiểm tra
- Cần kiểm tra độ an toàn của sân tập, hồ cát, đệm nhảy, sào nhảy... và kiểm tra sự chuẩn bị trang phục của học sinh, đồ dùng tập luyện. Đây là khâu quan trọng vì nếu không kiểm tra kĩ thì giáo viên sẽ không làm chủ được tiết dạy, độ an toàn của việc tập luyện không cao, tâm lí học sinh không thật sự vững vàng khi bước vào giờ học.
2.5.2.2. Giải thích kĩ thuật động tác cần ngắn gọn, chính xác.
- Không nhất thiết phải giải thích kĩ quá. Khi học sinh đã học những vấn đề cơ bản ở các tiết trước không cần nhắc lại. Ví dụ: Không cần giải thích nhảy xa phải chạy đà nhanh, giậm nhảy mạnh, bật lên cao hay phân tích góc độ giậm chân, nhảy và góc độ bay trọng tâm cơ thể và những vấn đề khác. Vì như vậy sẽ mất nhiều thời gian lại không tập trung sự chú ý của học sinh vào kĩ thuật của động tác. Ví dụ về chạy đà, giáo viên chỉ cần nêu chạy đà trên một đường thẳng, chạy từ chậm đến nhanh, và giữ tốc độ ở những bước cuối, điều này có tác dụng giảm thời gian giải thích mà tăng thời gian luyện tập, rèn luyện kĩ năng nhảy xa cho học sinh. Xen kẽ giữa hai lần tập giáo viên nên cho học sinh nghỉ (một cách tích cực) để giáo viên giải thích thêm những điều học sinh chưa hiểu kĩ, củng cố và bổ sung những kiến thức có liên quan. Như vậy học đi đôi với hành, lí thuyết gắn liền với luyện tập để nắm vững, củng cố và nâng cao kiến thức, kĩ năng vận động và rèn luyện thể lực cho học sinh.
2.5.2.3. Phối hợp khởi động và bổ trợ
- Thông thường giáo viên cho học sinh tập bài khởi động, tiếp đến là bài tập bổ trợ cho nội dung bài học. Khi thực hiện như vậy sẽ làm mất thời gian, vì vậy giáo viên có thể cho học sinh kết hợp hai bài tập thành một. Để làm được điều này giáo viên cần căn cứ vào từng loại hình của bài dạy để chọn những động tác vừa có tác dụng khởi động, vừa có tác dụng bổ trợ cho các động tác chính mà học sinh sẽ học tiếp ngay sau đó.
Ví dụ: Khi dạy nội dung: Chạy đà kết hợp với giậm nhảy của nhảy xa.
 Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tập luyện như sau:
Khởi động làm linh hoạt các khớp xương.
Chạy nhẹ nhàng và xác định chân giậm nhảy.
Giáo viên cho học sinh chạy nhẹ nhàng, khi tới vạch giới hạn thì giậm nhảy bật qua. Sau một số lần học sinh sẽ xác định được đúng chân giậm nhảy là chân phải hay chân trái.
Tiếp theo cho học sinh chạy nhẹ nhàng ba bước giậm nhảy bật đi xa.
Sau đó cho học sinh chạy nhẹ nhàng bật nhảy lên cao về phía trước, chạm vật chuẩn trên cao.
- Cách tập như bài tập trên đây đã bổ trợ cho kĩ thuật chạy đà, chạy đà giậm nhảy, giậm nhảy đi xa và giậm nhảy bật lên cao. Học sinh được tăng thời gian tập luyện kĩ thuật và kĩ năng của kĩ thuật nhảy xa. Khi học sinh được tập luyện nhiều, nghĩa là khối lượng vận động tăng, có ảnh hưởng tốt đến việc rèn luyện thể lực cho học sinh.
2.5.2.4. Kết hơp làm mẫu của giáo viên với việc sử dụng tranh kĩ thuật.
- Việc làm mẫu của giáo viên có tầm quan trọng đặc biệt và không thể thiếu khi lên lớp, nếu không làm mẫu chuẩn thì học sinh sẽ không nắm được kĩ thuật dẫn đến việc tập luyện sẽ không chính xác, đặc biệt là khi dạy kĩ thuật mới. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân: trình độ chuyên môn, sức khoẻ, năng khiếu thể thao của giáo viên... nên việc làm mẫu của giáo viên còn gặp nhiều hạn chế nhất định như: làm mẫu không chuẩn, không dứt khoát, không rõ kĩ thuật. Để khắc phục những hạn chế đó, giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh kĩ thuật giới thiệu và phân tích để học sinh nhận biết kĩ thuật, động tác dễ hơn. Mặt khác, học sinh vừa học vừa đối chiếu với hình vẽ để tự sửa chữa những kĩ thuật còn chưa đúng của mình. Nhưng cũng không nên lạm dụng tranh vẽ, mà phải suy nghĩ và tính toán xem sử dụng tranh kĩ thuật vào thời điểm nào, sử dụng như thế nào để phát huy được tác dụng của tranh kĩ thuật, học sinh có ấn tượng sâu và có hứng thú trong quá trình học tập.
Ví dụ: Tiết 39 – Nhảy xa – Lớp 8
Trong phần cơ bản, khi giáo viên giảng giải, phân tích kĩ thuật động tác nhảy xa sẽ kết hợp tranh kĩ thuật để học sinh nắm chắc tư thế và động tác.
Hình 1: Giai đoạn giậm nhảy 
Hình2: Kỹ thuật đặt chân vào ván giậm nhảy
2.5.2.5. Tổ chức lên lớp phải thực sự khoa học.
Việc tổ chức học sinh luyện tập là khâu quan trọng và then chốt. Những tiết dạy của giáo viên chưa thành công cũng phần lớn là do khâu tổ chức luyện tập cho học sinh còn yếu. Các nhóm tổ hoạt động không thường xuyên, giáo viên phân việc chưa khoa học hoặc giáo viên không có kĩ năng bao quát, quản lí học sinh... Điều đó làm ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu quả của bài dạy, và như vậy kĩ năng vận động không thành, thể lực cũng không đạt.
Do vậy, ngay từ khi soạn bài, chuẩn bị cho bài lên lớp giáo viên phải tính đến khâu tổ chức luyện tập thực sự khoa học, thể hiện ở những nội dung sau:
Vị trí luyện tập để học sinh quan sát được tranh kĩ thuật hay người làm
mẫu, đứng cách nhau bao nhiêu để không ảnh hưởng đến nhóm, tổ khác.
Đội hình tập luyện: Xếp chữ U, hàng ngang, vòng tròn là tuỳ theo từng nội dung của từng bài, từng hoạt động.
Học sinh tập luyện theo nhóm lớn, nhóm nhỏ, đồng loạt hay luân phiên, động viên tất cả các em tham gia tập luyện, những em có năng khiếu kèm cặp,giúp đỡ những em tiếp thu chậm, nhút nhát. Có những nội dung chỉ phù hợp với nhóm nhỏ, nhưng có những hoạt động tổ chức cả lớp lại đạt hiệu quả, có hoạt động tổ chức theo vòng tròn hay nhóm thì mới đạt hiệu quả cao.
Sau đây tôi xin đưa ra một số đội hình mà giáo viên hay sử dụng trong giảng dạy
Hình3: Đội hình vòng tròn Hình4: Đội hình hàng ngang
 Hình 5: Đội hình hàng ngang Hình 6: Đội hình dòng chảy
 Hình 7:Đội hình chia nhóm tập luyện Hình 8: Đội hình chạy nhanh
Hình 7 : Đội hình tập đá cầu Hình 8: Đội hình trò chơi chạy
 tiếp sức con thoi 
Việc sử dụng đồ dùng thiết bị cũng cần cân nhắc kĩ, sử dụng thiết bị, đồ dùng nào, số lượng bao nhiêu, sử dụng vào thời điểm nào là thích hợp.
Nếu tiết dạy mà chuẩn bị tốt những điều nêu trên đảm bảo sẽ thu được kết quả cao, tiết dạy có chất lượng, học sinh nắm chắc kiến thức và kĩ năng.
2.5.2.6. Tổ chức trò chơi.
Thường xuyên tổ chức các trò chơi để gây hứng thú học tập. Giáo viên nghiên cứu kĩ các hoạt động và chuyển một số hoạt động thành trò chơi để thay đổi không khí học tập.
Ví dụ: Trong tiết dạy 50 - lớp 8: Nhảy xa - TTTC - Chạy bền.
Trò chơi “Bật cóc tiếp sức” được tổ chức vào cuối tiết học. Sau phần cơ bản nhằm mục đích phát triển sức mạnh, thể lực và gây hứng thú cho học sinh. 
2.6.SỬ DỤNG TỐT ĐỒ DÙNG THIẾT BỊ VÀ TẬN DỤNG ĐIỀU KIỆN SÂN BÃI CỦA TRƯỜNG HỌC 
- Muốn sử dụng tốt đồ dùng, thiết bị trong môn thể dục, một điều cũng rất quan trọng là cần biết trong bộ đồ dùng có những đồ dùng nào sử dụng cho môn thể dục. Cần xem xét một lượt và ghi lại tên của từng loại đồ dùng.
Ví dụ: - Đệm nhảy, xà nhảy sử dụng vào tiết 37,38,39,... lớp 9.
 - Cầu đá sử dụng vào tiết 26,27,28... lớp 8.
 - Tranh kĩ thuật Xuất phát thấp sử dụng vào tiế 8,9,10. lớp 8
2.7.CÔNG TÁC KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ 
- Việc kiểm tra, đánh giá chiếm vị trí rất quan trọng. Nếu việc kiểm tra, đánh giá không thường xuyên sẽ dẫn đến việc học sinh chủ quan, xem nhẹ và không chú ý học tập và rèn luyện.
- Sau mỗi bài, mỗi chương đều có bài kiểm tra, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những yêu cầu về kiến thức và kĩ năng của bài đó, chương đó để kiểm tra cho sát kiến thức và đối tượng học sinh. 
- Trong khi kiểm tra đánh giá, học sinh sẽ cùng giáo viên thẩm định kết quả của bạn bè.
 - Việc chấm bài cũng rất chặt chẽ theo các mức độ khác nhau chứ không làm qua loa đại khái để đánh giá thực chất học tập, rèn luyện của học sinh.
CHƯƠNG III :
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ 
3.1 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.1. Nghiên cứu lí luận:
Đọc và phân tích các tài liệu liên quan đến đề tài.
3.1.2. Nghiên cứu các tư liệu:
Sổ sách ghi chép kinh nghiệm về dạy học thể dục.
Tài liệu liên quan đến phương pháp dạy học môn thể dục.
Tự nghiên cứu, tìm hiểu nắm chắc nội dung chương trình – Sách g

File đính kèm:

  • docskkn(5).doc
Giáo Án Liên Quan