Giao tiếp tích cực của giáo viên mầm non với trẻ và cha, mẹ/ người chăm sóc trẻ
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAO TIẾP TÍCH CỰC
Giao tiếp: Giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người với con người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, cảm xúc, ảnh hưởng qua lại với nhau bằng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ nhằm thực hiện những mục đích nhất định.
Tính tích cực giao tiếp: là một phẩm chất tâm lí cá nhân thể hiện ở nhu cầu giao tiếp, tính chủ động giao tiếp và sự hòa nhập vào các quan hệ của con người trong giao tiếp.
- Tính tích cực giao tiếp được đánh giá qua hai mặt:
+ Mặt bên trong: nhu cầu giao tiếp;
+ Mặt bên ngoài: sự chủ động giao tiếp và thích ứng, hòa nhập của chủ thể vào trong các quan hệ con người.
Giao tiếp tích cực của GVMN: là quá trình chủ động tiếp xúc tâm lý, thông qua phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, cô và trẻ trao đổi với nhau về thông tin, cảm xúc, ảnh hưởng qua lại với nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu giao tiếp và hướng tới sự đồng thuận mà cô và trẻ mong muốn để thực hiện những mục đích nhất định.
GIAO TIẾP TÍCH CỰC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON VỚI TRẺ VÀ CHA, MẸ/ NGƯỜI CHĂM SÓC TRẺ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAO TIẾP TÍCH CỰC Giao tiếp: Giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người với con người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, cảm xúc, ảnh hưởng qua lại với nhau bằng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ nhằm thực hiện những mục đích nhất định. Tính tích cực giao tiếp: là một phẩm chất tâm lí cá nhân thể hiện ở nhu cầu giao tiếp, tính chủ động giao tiếp và sự hòa nhập vào các quan hệ của con người trong giao tiếp. - Tính tích cực giao tiếp được đánh giá qua hai mặt: + Mặt bên trong: nhu cầu giao tiếp; + Mặt bên ngoài: sự chủ động giao tiếp và thích ứng, hòa nhập của chủ thể vào trong các quan hệ con người. Giao tiếp tích cực của GVMN: là quá trình chủ động tiếp xúc tâm lý, thông qua phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, cô và trẻ trao đổi với nhau về thông tin, cảm xúc, ảnh hưởng qua lại với nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu giao tiếp và hướng tới sự đồng thuận mà cô và trẻ mong muốn để thực hiện những mục đích nhất định. NỘI DUNG GIAO TIẾP Nội dung tâm lý trong giao tiếp tích cực Nhận thức Thái độ cảm xúc Hành vi. Nội dung công việc trong giao tiếp Nội dung công việc phản ánh tính chất của mối quan hệ giữa GVMN với trẻ, với Cha mẹ/ người chăm sóc của trẻ khi giao tiếp. Đó là những sự việc xảy ra trong quan hệ diễn ra hàng ngày, mang tính chất hoàn cảnh, tình huống. CÁC HÌNH THỨC GIAO TIẾP Theo phương tiện giao tiếp có thể có các loại giao tiếp sau: Giao tiếp bằng tín hiệu phi ngôn ngữ Giao tiếp bằng ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) Theo khoảng cách, có thể có hai loại giao tiếp cơ bản: Giao tiếp trực tiếp Giao tiếp gián tiếp Theo quy cách, người ta chia giao tiếp thành 2 loại: - Giao tiếp chính thức - Giao tiếp không chính thức PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP GVMN giao tiếp với trẻ bằng phương tiện ngôn ngữ Sử dụng từ ngữ: trong sáng, gẫn gũi, dễ hiểu; Sử dụng câu: ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc; Sử dụng ngữ điệu giọng nói: nhẹ nhàng, trìu mến, yêu thương GVMN giao tiếp tích cực với trẻ bằng phương tiện phi ngôn ngữ Ánh mắt: dịu hiền, trìu mến Nét mặt: vui tươi, thân thiện, gần gũi, cởi mở Cử chỉ: nhẹ nhàng, ân cần, quan tâm; Tiếp xúc cơ thể: nắm tay, xoa đầu, âu yếm, vuốt ve; Tư thế: nghiêng người, cúi sát Trang phục: lịch sự, gọn gàng, sạch sẽ MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG GIAO TIẾP TÍCH CỰC CỦA GVMN VỚI TRẺ Đáp ứng nhu cầu giao tiếp của trẻ Luôn thể hiện sự quan tâm, gần gũi, biết nắm bắt nhu cầu giao tiếp của trẻ Cảm nhận được cảm xúc tích cực và tiêu cực của trẻ đang phải trải qua, biết giải tỏa những cảm xúc tiêu cực của mình và của trẻ, biết cách làm lây lan những cảm xúc tích cực tới trẻ (vui vẻ, hào hứng, phấn khởi), biết tự chủ cảm xúc của mình (kiềm chế sự tức giận) Chủ động trong giao tiếp của GVMN với trẻ - Luôn chủ động giao tiếp với thái độ ân cần, niềm nở, biết cách lắng nghe trẻ. Luôn gọi tên trẻ khi giao tiếp để mọi trẻ đều cảm thấy được cô quan tâm, yêu thương và được đối xử công bằng, tạo tâm lý tin cậy, mong muốn chia sẻ, gần gũi giữa giáo viên và trẻ. Luôn tôn trọng sự phát triển tự nhiên, đặc điểm tâm lý lứa tuổi, ý kiến và quan điểm cá nhân (năng lực, đặc điểm cá nhân trong hành vi giao tiếp, ngôn ngữ), chấp nhận sự khác biệt, chấp nhận trẻ học bằng cách thử - sai, cho phép trẻ được làm sai trước khi làm đúng. Hạn chế ra mệnh lệnh, không nên nói “Không được làm thế này” mà nói “Con nên làm thế này”. Sự hòa nhập trong giao tiếp Tạo mối quan hệ thân thiện thông qua tổ chức các hoạt động tập thể. Chú trọng phát triển các kỹ năng xã hội trong các hoạt động nhóm (chờ đến lượt, phân công, hợp tác chia sẻ, biết tôn trọng bạn, giải quyết xung đột, biết kiềm chế). Tạo cơ hội cho trẻ tự phục vụ và giúp đỡ nhau tuỳ theo khả năng Tăng cường khích lệ, động viên trẻ lạc quan, tin vào bản thân: Ví dụ: “Không sao đâu”, “làm lại nào”, “từ từ thôi”, “con sắp làm được rồi” - Khuyến khích trẻ bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ và thoải mái, tự tin diễn đạt bằng lời nói, tự tin trước đám đông qua hoạt động trình diễn trên sân khấu, trước các bạn, trước người lạ. GIAO TIẾP TÍCH CỰC CỦA GVMN VỚI TRẺ THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP GV giao tiếp với trẻ trong các hoạt động Hoạt động đón trẻ và trả trẻ Hoạt động chơi – tập/ hoạt động học Hoạt động chơi ở các góc, chơi ngoài trời, chơi theo ý thích Hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân của trẻ Giao tiếp trong hoạt động đón trẻ Nội dung giao tiếp với trẻ nhà trẻ: Dạy trẻ chào hỏi lễ phép, trò chuyện với trẻ về bản thân, về bạn, về gia đình của bé, dạy trẻ cách rửa tay, rửa mặt và vệ sinh cá nhân Ví dụ: Hỏi trẻ về tên của mình, tên bố mẹ về nhu cầu, sở thích, về các hoạt động, hành động trẻ thực hiện, tình cảm của trẻ với các bạn, với cô. Nội dung giao tiếp với trẻ MG Giao tiếp theo chủ đề trong kế hoạch tuần/ tháng: dạy trẻ chào hỏi lễ phép, thể hiện cảm xúc phù hợp, trò chuyện về bản thân trẻ, sở thích, nhu cầu, khả năng của trẻ, cảm xúc, trò chuyện về gia đình trẻ, bạn của trẻ và những sự kiện diễn ra hàng ngày xung quanh trẻ, cách giữ gìn vệ sinh cá nhân, tập luyện tăng cường sức khỏe, cách phòng bệnh, cách đảm bảo an toàn. Ví dụ: Trò chuyện với trẻ về họ tên, đặc điểm bên ngoài, công việc hàng ngày, nghề nghiệp của các thành viên trong gia đình; sở thích, tình cảm của trẻ và của các thành viên trong gia đình Hình thức giao tiếp: Trực tiếp Phương tiện giao tiếp: Sử dụng ngôn ngữ nói: đón trẻ vào lớp, dạy trẻ khoanh tay và nói chào mẹ, chào cô và chào các bạn trong lớp, gợi ý để trẻ trò chuyện với nhau, nói với trẻ vào lớp chơi cùng cô và bạn, kết hợp sử dụng các tín hiệu phi ngôn ngữ tạo cho cơ thể và nét mặt luôn có được vẻ thân thiện, gần gũi, cở mở với trẻ, duy trì quá trình giao tiếp bằng mắt, cử chỉ điệu bộ cởi mở, vui tươi thể hiện sự quan tâm, chia sẻ, đồng cảm, ôm ấp vỗ về khi trẻ khóc, trẻ buồn, sợ hãi. Sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ: Cử chỉ, gần gũi nhẹ nhàng tiếp xúc, làm quen với trẻ khi có bố, mẹ, sau đó dẫn trẻ vào lớp hoặc đưa tay đón và bế trẻ thể hiện sự âu yếm, vỗ về. Giao tiếp trong hoạt động chơi - tập/ hoạt động học Nội dung giao tiếp Giúp trẻ giải quyết các khó khăn như trẻ chưa tập trung chú ý, chưa biết cách thực hiện nhiệm vụ học tập Giúp trẻ thể hiện tự tin trong hoạt động học tập: Giúp trẻ lĩnh hội, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, sự hiểu biết, nhu cầu, tình cảm bằng lời nói, thái độ, hành động của mình với bạn, với cô. Hướng dẫn trẻ thực hiện các hoạt động học, quan sát và điều chỉnh hoạt động của trẻ cho phù hợp, khơi gợi, kích thích tạo điều kiện để trẻ tham gia hoạt động học tích cực, chủ động hơn bằng hệ thống câu hởi, ngôn ngữ, hiệu lệnh, chỉ dẫn, hướng dẫn. Nhận xét, đánh giá, cổ vũ, khuyến khích trẻ hoạt động Hình thức giao tiếp: Trực tiếp Phương tiện giao tiếp - Sử dụng ngôn ngữ nói: Giáo viên hướng dẫn trẻ thực hiện hoạt động học thông qua việc sử dụng từ ngữ trong sáng, gần gũi, đặt các câu hỏi gợi mở, dễ hiểu lôi cuốn sự chú ý của trẻ vào nội dung học, khi trẻ trả lời đúng cô dùng lời nói tán thành, đồng ý để tỏ sự hài lòng, tôn trọng trẻ và ngược lại. Ví dụ: Con nói rất đúng! Cô cảm ơn con; Con còn hơi nhầm một chút, lần sau con cố gắng hơn nhé!. - Sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ: Khi trẻ nói hoặc trả lời câu hỏi của cô, cô nghiêng người về phía trẻ, gật đầu tán đồng ý kiến, nét mặt cởi mở, gần gũi, mỉm cười thân thiện, thể hiện sự kiên nhẫn lắng nghe trẻ nói, chú ý và hiểu được thông điệp không lời từ phía trẻ, ánh mắt nhìn về phía trẻ một cách thân thiện, biết phát ra tín hiệu tỏ rõ sự quan tâm đến điều trẻ nói, chờ đợi và tôn trọng trẻ, đón ánh mắt của trẻ một cách chủ động, làm chủ được bản thân khi giao tiếp. Giao tiếp trong hoạt động ăn, ngủ của trẻ Nội dung giao tiếp với trẻ nhà trẻ Trong giờ ăn: nội dung giao tiếp chủ yếu của GVMN với trẻ là tạo bầu không khí vui vẻ, thoái mái, ấm cúng như ở gia đình hướng dẫn và đưa trẻ đi vệ sinh, rửa tay trước khi ăn. Trong khi ăn cô tạo không khí vui vẻ cô bón cho trẻ bé, trẻ lớn hơn cô tập cho trẻ tự xúc cơm ăn, dỗ dành, động viên trẻ ăn hết suất, ăn xong cô lau miệng và vệ sinh cá nhân. Trong giờ ngủ: GVMN ôm ấp vỗ về, âu yếm, vuốt ve trẻ hoặc có thể hát ru cho trẻ ngủ Nội dung giao tiếp với trẻ mẫu giáo - Trong giờ ăn: nội dung giao tiếp chủ yếu của GVMN với trẻ là trước khi ăn hướng dẫn trẻ rửa tay, hỗ trợ cô kê bàn ghế, chuẩn bị khăn lau, bát, đĩa, thìa trước khi ăn. Cô dạy trẻ cách mời cô, mời bạn ăn cơm, động viên trẻ ăn hết xuất giới thiệuhoặc hỏi trẻ về món ăn, nói với trẻ về lợi ích của việc ăn rau xanh, động viên trẻ ăn hết xuất và khuyến khích trẻ ăn ngon miệng. - Trong giờ ngủ: GV tạo không khí ấm áp, yên tĩnh, an toàn cho trẻ, không quát mắng, dọa nạt Hình thức giao tiếp: Trực tiếp Phương tiện giao tiếp: ngôn ngữ nói và phi ngôn ngữ Cụ thể: Khi trẻ ăn: Trong bữa ăn GV động viên trẻ ăn hết xuất, chỉ dẫn bằng lời nói cho trẻ hành động đúng tạo thói quen gọn gang, sạch sẽ; Trong bữa ăn không nói chuyện, không đùa cợt, không ném hay vứt thức ăn xuống nền nhà; Hướng dẫn trẻ cách cầm bát, cầm thìa xúc cơm ăn, dùng lời nói nhẹ nhàng động viên trẻ ăn hết xuất, không bỏ thừa đồ ăn. Khi trẻ ngủ: Trẻ nhà trẻ cô dỗ dành, âu yếm, vuốt ve và hát ru cho trẻ ngủ; Trẻ MG: Cô yêu cầu trẻ lớn nhẹ nhàng đi về chỗ ngủ, không dọa nạt, quát mắng trẻ. Khi trẻ ngủ dậy GV hướng dẫn trẻ đi vệ sinh, rửa mặt cho tỉnh táo, GV trò chuyện vui vẻ để trẻ tỉnh ngủ chuyển sang hoạt động khác. Giao tiếp trong hoạt động chơi Nội dung giao tiếp Giáo viên lựa chọn và hướng dẫn cho trẻ chơi trò chơi học tập, trò chơi vận động, trò chơi đóng vai theo chủ đề, nghe cô kể chuyện, cùng cô đọc thơ, hát các bài hát, tham gia các hoạt động tạo hình mà trẻ thích hoặc cho trẻ xem ti vi, xem máy chiếu, video, clip về KN sống Tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi ngoài trời khi đi dạo chơi: cho trẻ chơi tự do, chơi trò chơi dân gian, trò chơi vận động, chơi theo ý thích hoặc cho trẻ quan sát thiên nhiên. Trò chuyện với trẻ về nhu cầu, sở thích, cảm xúc, hành vi, hành động chơi, mối quan hệ của trẻ trong khi chơi với cô, với bạn. Hình thức giao tiếp: trực tiếp Phương tiện giao tiếp - Sử dụng ngôn ngữ nói: Giúp trẻ giải quyết các khó khăn, xung đột trong quá trình chơi và giúp trẻ thực hiện đúng các hành vi xã hội trong quá trình chơi. Ví dụ: Khi trẻ mách cô bị bạn tranh giành đồ chơi và trẻ tỏ thái độ tức giận thì cô cần lắng nghe và chấp nhận cảm xúc đó của trẻ đồng thời giải tỏa cơn tức giận cho trẻ. + Cô trò chuyện với trẻ để trẻ chia sẻ những gì trẻ quan sát và trải nghiệm được khi dạo chơi, hoạt động ngoài trời nhằm giúp trẻ phát triển tính chủ động, mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. - Sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ: GVMN thể hiện gương mặt biểu cảm khi cùng chơi với trẻ, thái độ ân cần, chấp nhận cảm xúc của trẻ, giúp trẻ tháo bỏ tâm lý e ngại nhút nhát, sợ sệt, thể hiện sự quan tâm, đồng cảm Giao tiếp trong hoạt động trả trẻ Nội dung giao tiếp: Trò chuyện về những gì trẻ đã trải qua trong 1 ngày ở lớp, nêu gương, nhắc nhở trẻ Hướng dẫn trẻ làm vệ sinh cá nhân Nhắc nhở trẻ cất đồ chơi, đi giầy, dép, chào cha, mẹ, tạm biệt cô giáo, các bạn trước khi ra về. Hình thức: Trực tiếp Phương tiện giao tiếp Sử dụng ngôn ngữ nói: trò chuyện cùng với trẻ, khuyến khích nêu các gương tốt trong ngày tạo cho trẻ tâm trạng hào hứng, vui vẻ, có ấn tượng tốt với lớp, với cô giáo, với bạn bè để hôm sau trẻ thích đến trường, đến lớp học. Sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ: Khi cha, mẹ của trẻ đến đón trẻ, giáo viên sử dụng cử chỉ ân cần, nét mặt vui tươi giao tiếp với trẻ dạy trẻ đi giầy, dép, chào tạm biệt cô giáo, các bạn trước khi ra về. THỰC TRẠNG VỀ NỘI DUNG GIAO TIẾP Hồi cứu các kết quả khảo sát qua phiếu của 1166 GVMN, phỏng vấn sâu 45 GVMN và nghiên cứu 03 trường hợp về nội dung, hình thức và phương tiện giao tiếp của GVMN với trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ mẫu giáo lớn nói riêng tại các cơ cở chăm sóc, giáo dục trẻ trên địa bàn HN, Thái Nguyên cho thấy: Trong hoạt động đón và trả trẻ Qua trao đổi và quan sát cho thấy: GVMN luôn phải quan tâm đến tình hình sức khỏe của trẻ, khi trẻ có bất kỳ biểu hiện gì khác lạ là cô giáo đã phải kịp thời phát hiện và hỏi han, chăm sóc. “Cô L, giáo viên 12 năm kinh nghiệm cho biết: “Chỉ cần để ý một chút thôi là có thể nhận ra những biểu hiện bất thường của trẻ bởi khi trẻ khó chịu, mệt mỏi...đều biểu hiện qua ánh mắt, nét mặt, cử chỉ”. [11] Trong hoạt động học và hoạt động vui chơi GVMN thường sử dụng đồng thời phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong việc tổ chức hoạt động học và hoạt động chơi ở các góc cho trẻ, ngoài việc sử dụng các từ ngữ trong sáng, gần gũi, dễ hiểu, sử dụng câu có ngữ cảnh và câu giải thích để dạy trẻ trong hoạt động học thì GVMN còn thể hiện phương tiện phi ngôn ngữ để dạy trẻ có hiệu quả. Chẳng hạn như: nghiêng người về phía trẻ, gật đầu tán đồng ý kiến, ánh mắt tỏ rõ sự quan tâm đến điều trẻ nói khi trả lời các câu hỏi của cô. Đặc biệt, ở hoạt động chơi ở góc GVMN còn thể hiện gương mặt biểu cảm khi nhập vai chơi trò chơi ĐVTCĐ cùng chơi với trẻ, cử chỉ, điệu bộ, hành vi thể hiện sự quan tâm, đồng cảm, khi trẻ làm sai hoặc mắc lỗi cô nhắc nhở trẻ nhẹ nhàng Trong các hoạt động khác Mức độ trò chuyện của GVMN với trẻ về bản thân trẻ và các thành viên trong gia đình và trò chuyện về bạn của trẻ chưa cao, chỉ dừng lại ở mức trung bình. Hành vi giao tiếp của giáo viên mầm non với trẻ được đánh giá là khá tốt: GV thường xuyên hướng dẫn trẻ thực hiện các hành động, quan sát và điều chỉnh hoạt động của trẻ, nhận xét, đánh giá trẻ trong hoạt động kịp thời và luôn có sự cổ vũ, khuyến khích trẻ. GVMN giao tiếp với trẻ bằng tâm lý thoải mái và vui vẻ. các cảm xúc tích cực được GVMN sử dụng trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ: GV nhận biết cảm xúc, kiềm chế cảm xúc và tác động đến trẻ, biết quan tâm đồng cảm và cảm nhận được cảm xúc của trẻ. Các kỹ năng thể hiện sự yêu thương, trao đổi thông tin về nhận thức, cảm xúc và hành động, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng tự chủ cảm xúc của GVMN với trẻ mẫu giáo đều ở mức trung bình. Đặc biệt, kỹ năng thiết lập mối quan hệ với trẻ và nắm bắt tâm lý trẻ còn ở mức thấp Sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ Giáo viên biết tạo cho cơ thể và nét mặt luôn có được vẻ thân thiện, gần gũi và cởi mở với trẻ; biết duy trì quá trình giao tiếp với trẻ bằng mắt, thể hiện nét mặt, cử chỉ, điệu bộ cởi mở, quan tâm và chia sẻ, đồng cảm; sử dụng các tín hiệu phi ngôn ngữ đáp lại nội dung đang nghe trẻ nói như gật đầu, giơ tay đồng ý kiến và ngược lại lắc đầu, xua tay khi không đồng tình. Tuy nhiên, “Chờ đợi và tôn trọng trẻ” còn ở mức độ thấp mặc dù nhận thức rõ vấn đề này (Phỏng vấn GV trường MN Mỹ Đình). Hiệu trưởng 01 trường mầm non thuộc quận Cầu Giấy cho biết: “Những đặc điểm về những cử chỉ phi ngôn ngữ tích cực là những biểu hiện sinh động và có hiệu quả rất lớn trong việc giáo dục trẻ nhưng không phải GVMN nào cũng có thể thực hiện tốt vì nhiều lý do khác nhau như yếu tố chủ quan ( tính cách, lòng yêu nghề..) hay có sự tác động của yếu tố khách quan ( số lượng trẻ trong lớp quá đông)”[11] Hạn chế: Trong giao tiếp bằng phương tiện phi ngôn ngữ đôi khi hoặc thỉnh thoảng GV có biểu hiện “Nét mặt vô cảm, cau có, khó chịu”, hay một vài GV khi giao tiếp còn tỏ thái độ bực tức và có “lườm và nghiêm mặt”, khi trẻ chạy đến mách cô về việc bạn phá hỏng đồ chơi, trêu trọc làm trẻ tức bạn, GV còn chưa chủ tâm đến việc đó chỉ ừ à cho xong, tuy nhiên việc này ít khi xẩy ra ( ĐTB = 1,07; 1,08/4.0). Sử dụng ngôn ngữ nói GVMN “Sử dụng từ ngữ gần gũi” tương đối tốt ( ĐTB = 3,70/4.0). Điều này giúp mối quan hệ giữa cô và trẻ trở nên thân thiết hơn. “Sử dụng từ ngữ dễ hiểu”, “Sử dụng từ ngữ trong sáng” cũng được GVMN sử dụng ở mức thường xuyên trong các hoạt động học và hoạt động chơi ( ĐTB =3.70, 3,67 và 3,59/4.0). [8] Hạn chế: Đôi lúc ở một vài tình huống GV còn nói to, quát trẻ, khi trẻ không nghe lời GV tỏ vẻ khó chịu và nói giọng “gắt gỏng”, “ngữ điệu thô mạnh” và sử dụng từ cấm đoán “Không được” và đôi khi có xử phạt nhẹ đối với trẻ. Nhìn chung thực trạng về giao tiếp của GVMN với trẻ như sau: Trong giao tiếp hàng ngày, GVMN trò chuyện với trẻ, đặc biệt là về những khó khăn trẻ gặp phải trong hoạt động, về tình hình sức khỏe, về đặc điểm của trẻ, về các thành viên trong gia và về bạn bè của trẻ tuy việc trò chuyện chưa diễn ra thường xuyên mà còn ở mức trung bình. GVMN thường xuyên biểu hiện trạng thái cảm xúc tích cực (vui vẻ, hạnh phúc, thoải mái, dễ chịu); Trạng thái cảm xúc tiêu cực như khó chịu, buồn rầu, căng thẳng, tức giận, lạnh lùng, lo lắng đôi lúc GVMN cũng có biểu hiện nhưng ít. Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, GVMN thường xuyên sử dụng từ ngữ trong sáng, gần gũi, dễ hiểu. Đôi lúc còn ra mệnh lệnh, ra lệnh cho trẻ hoặc còn áp đặt trẻ theo ý của mình, thậm chí muốn trẻ vào nề nếp cô vẫn còn quát mắng trẻ khi trẻ mắc lỗi, trẻ không nghe lời, trẻ làm sai yêu cầu của cô. GVMN sử dụng đa dạng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ với trẻ: Giao tiếp bằng ánh mắt dịu hiền, âu yếm; nét mặt vui tươi, thân thiện; cử chỉ nhẹ nhàng, ân cần; hành vi tiếp xúc trực tiếp như nắm tay, xoa đầu, ôm ấp được GVMN thể hiện hàng ngày, trong mọi hoạt động với trẻ. Đôi khi, GVMN còn thể hiện ánh mắt vô cảm, lườm nguýt trẻ, cau có hoặc có những cử chỉ mạnh mẽ, thậm chí cá biệt có hành vi thô bạo trong giao tiếp với trẻ. Các hành vi quan sát, hướng dẫn, cổ vũ trẻ hoạt động, GVMN thực hiện thường xuyên. Tuy nhiên do số trẻ trong lớp quá đông nên GV không thể bao quát và quan tâm trò chuyện với từng trẻ trong một ngày hoặc thiếu sự chờ đợi trẻ khi trẻ hành động hoặc trả lời các câu hỏi. Trong hoạt động học, nhiều lúc giáo viên chưa có sự giao tiếp gần gũi giữa cô và trẻ, còn chưa thật sự chú ý lắng nghe trẻ nói, còn ít tạo điều kiện cho trẻ hỏi nhiều và nêu những thắc mắc của mình bằng chính ngôn ngữ ngây thơ của trẻ. Giáo viên vẫn còn dạy rập khuôn theo giáo án, luôn nghĩ rằng nếu vui vẻ, dễ dãi thì sẽ mất nề nếp gây ồn ào mất trật tự. Nguyên nhân của thực trạng giao tiếp giữa GVMN với trẻ Tình yêu với trẻ, với nghề, ý thức tự rèn luyện kỹ năng giao tiếp, ý thức trách nhiệm, sự hài lòng, say mê với công việc, phẩm chất nhân cách người GVMN là những yếu tố rất ảnh hưởng đến giao tiếp của GVMN với trẻ. Tình cảm, nhu cầu giao tiếp với cô giáo của trẻ, số lượng trẻ trong một lớp quá đông cũng làm hạn chế mức độ giao tiếp của GVMN với trẻ. Quá trình đào tạo, các hoạt động học tập, bồi dưỡng chuyên môn về các kỹ năng giao tiếp do nhà trường tổ chức còn chưa đồng bộ dẫn đến sự thiếu hụt nhất định về kiến thức và kỹ năng giao tiếp giữa GVMN với trẻ. Sự quan tâm ủng hộ, sự hỗ trợ của phụ huynh, mối quan hệ xã hội, cơ chế, chính sách, môi trường và điều kiện làm việc, điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường và phong cách quản lý của cán bộ quản lý ảnh hưởng khá lớn đến giao tiếp của GVMN với trẻ. Biện pháp điều chỉnh giao tiếp theo hướng tích cực giữa GVMN với trẻ Tăng cường các hoạt động tương tác trong giao tiếp giữa GVMN với trẻ Chủ động giao tiếp với trẻ thường xuyên, mọi lúc mọi nơi - Đối với trẻ nhà trẻ: + Gọi tên trẻ khi trò chuyện, luôn nhìn vào mặt trẻ + Giao tiếp với trẻ bằng cử chỉ, điệu bộ như: thơm vào má, âu yếm, ôm trẻ vào lòng, nói nựng, bế trẻ lên, chơi đùa cùng với trẻ qua các trò chơi hoan hô, Ú òa, chi chi cành chành, soi gương, làm mặt xấu, mặt đẹp, nói và dùng tay để chào tạm biệt (bai bai, cười tươi nào, khóc nhè kìa)chỉ vào các bộ phận trên cơ thể bé và gọi tên: đầu, tóc, quần áo, mũi, tai, mắt, miệng xinh + Khi tiếp xúc với đồ vật GVMN gọi tên đồ vật, màu sắc, hình dạng, kích thước (to, nhỏ) và nói tên thao tác với đồ vật khi chơi cùng trẻ: quả bóng, màu đỏ, xanh, vàng; to – nhỏ, cho trẻ chơi lăn bóng, bắt bóng cùng cô ; GV cùng trẻ xâu vòng và nói xâu vòng to tặng mẹ, tặng cô, xâu vòng bé tặng bạn búp bê hoặc thậm chí nếu trẻ mới biết đi, GVcó thể nằm bò ra sàn nhà và cùng trẻ xây dựng những ngôi nhà từ những hình khối Đối với trẻ MG: + Luôn tích cực thay đổi ngữ điệu và giọng nói sao cho phù hợp với nội dung và hoàn cảnh khi giao tiếp. Khi trò chuyện hoặc trong giờ học
File đính kèm:
giao_tiep_tich_cuc_cua_giao_vien_mam_non_voi_tre_va_cha_me_n.doc