Giúp học sinh sửa các lỗi chính tả thường mắc trong phân môn chính tả lớp 2
Nâng cao chất lượng giảng dạy là vấn đề then chốt đang được Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành quan tâm. Song song với việc nâng cao chất lượng giảng dạy ở các môn học khác thì việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt trong đó có phân môn Chính tả là việc làm rất cần thiết bởi nó chiếm một vai trò quan trọng trong chương trình ở bậc Tiểu học.
Như chúng ta đã biết phân môn chính tả là một trong các phân môn trong môn tiếng Việt ở Tiểu học nói chung vá ở lớp 3 nói riêng nó có một vai trò rất quan trọng. Ngoài việc giúp các em học tốt phân môn tiếng Việt người giáo viên còn phải hình thành cho các em các kỹ năng và thói quen viết đúng chính tả hay nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng tiếng Việt văn hóa , tiếng Việt chuẩn mực.Chính vì vậy mà phân môn chính tả có một vị trí quan trọng trong cơ cấu chương trình môn tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Không phải ngẫu nhiên mà ở tiểu học, chính tả được bố trí thành một phân môn độc lập (thuộc môn tiếng Việt) có tiết dạy riêng. Trong khi đó ở THCS và THPT chính tả chỉ được dạy xen kẽ trong các tiết thực hành ở phân môn Tập làm văn. chứ không tồn tại với tư cách là một môn độc lập như ở Tiểu học. Chính vì lẽ đó mà khi dạy học người giáo viên không những giúp học sinh nắm được quy tắc chính tả mà thông qua đó cần hình thành cho các em những kỹ năng chính tả.
Phòng GD&ĐT Vĩnh Thuận CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Trường TH Vĩnh Phong 3 Độc Lập -Tự Do - Hạnh Phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH SỬA CÁC LỖI CHÍNH TẢ THƯỜNG MẮC TRONG PHÂN MÔN CHÍNH TẢ LỚP 2 I/ LỜI NÓI ĐẦU 1/ Lý do chọn đề tài. a/ Cơ sở lý luận. Nâng cao chất lượng giảng dạy là vấn đề then chốt đang được Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành quan tâm. Song song với việc nâng cao chất lượng giảng dạy ở các môn học khác thì việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt trong đó có phân môn Chính tả là việc làm rất cần thiết bởi nó chiếm một vai trò quan trọng trong chương trình ở bậc Tiểu học. Như chúng ta đã biết phân môn chính tả là một trong các phân môn trong môn tiếng Việt ở Tiểu học nói chung vá ở lớp 3 nói riêng nó có một vai trò rất quan trọng. Ngoài việc giúp các em học tốt phân môn tiếng Việt người giáo viên còn phải hình thành cho các em các kỹ năng và thói quen viết đúng chính tả hay nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng tiếng Việt văn hóa , tiếng Việt chuẩn mực.Chính vì vậy mà phân môn chính tả có một vị trí quan trọng trong cơ cấu chương trình môn tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Không phải ngẫu nhiên mà ở tiểu học, chính tả được bố trí thành một phân môn độc lập (thuộc môn tiếng Việt) có tiết dạy riêng. Trong khi đó ở THCS và THPT chính tả chỉ được dạy xen kẽ trong các tiết thực hành ở phân môn Tập làm văn.. chứ không tồn tại với tư cách là một môn độc lập như ở Tiểu học. Chính vì lẽ đó mà khi dạy học người giáo viên không những giúp học sinh nắm được quy tắc chính tả mà thông qua đó cần hình thành cho các em những kỹ năng chính tả. Ngoài việc cung cấp kỹ năng giáo viên phải rèn cho học sinh một số phảm chất như tính cẩn thận, óc thẩm mỹ, bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý tiếng Việt và chữ viết tiếng Việt. b/ Cơ sở thực tiễn. Chữ viết hiện nay của người Việt là chữ viết ghi lại theo phát âm. Do đó việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sử viết đúng. Tuy nhiên do yếu tố vùng miền, cách phát âm mỗi nơi có khác nhau. Mặc dù những qui tắc, qui ước về Chính tả đã được thống nhất theo ngữ pháp chung. Nhưng việc “viết đúng Chính tả” trong học sinh hiện nay nói chung vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại. Chính vì điều này làm ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt nói chung cũng như phân môn chính tả nói riêng. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy thực tế em luôn tìm tòi đưa ra một vài biện pháp tích cực giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác trong chương trình. Bởi trên thực tế, nếu người nói “không chuẩn phát âm” không thể làm người nghe hiểu mình muốn gì thì “viết không đúng” cũng không thể diễn đạt được ý tưởng của mình cho người khác hiểu. Đặc biệt là trong chương trình phổ thông, môn Tiếng Việt lại là môn “chủ lực và trung tâm” để có thể khai thác các môn học khác một cách tốt nhất.Có lẽ vì vậy mà tất cả những người làm công tác giáo dục ai cũng phải băn khoăn, trăn trở luôn đặt ra câu hỏi: làm thế nào để giúp các em học tốt hơn ở tất cả các môn học, đặc biệt là phân môn chính tả này? II/ THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ Trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn chính tả nói riêng bản thân em đã gặp những khó khăn và thuận lợi sau: a/ Thuận lợi: Trong quá trình giảng dạy của bản thân đi luôn được sự quan tâm giúp đỡ của Ban Giám Hiệu nhà trường đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ như dự giờ đóng góp góp ý kiến và học hỏi đồng nghiệp qua các buổi thao giảng mở chuyên đề, bản thân tự rút kinh nghiệm trong từng tiết học. Đặc biệt là sự quan tâm giúp đỡ của đồng nghiệp trong tổ luôn tận tình góp ý chi tiết cho bản thân hoàn thiện hơn về phương pháp cũng như về quy trình dạy học các môn học nói chung và chính tả nói riêng.Về cơ sở vật chất tương đối đầy đủ đảm bảo cho việc dạy và học.Bên cạnh sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường về phía học sinh cũng tạo điều kiện thuận lợi để bản thân có thể giảng dạy tốt, mặc dù là trường vùng sâu nhưng đa phần các em đều có ý thức học tập, ngoan ngoãn biết vâng lời thầy cô. Phụ huynh HS cũng có quan tâm đến HS, bên cạnh đó còn được sự quan tâm của các dự án trường học nên đồ dùng cũng như SGK của học sinh tương đối đầy đủ đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành việc giảng dạy trong năm học 2010-2011 này. b/ Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi thì bản thân cũng gặp không ít những khó khăn. Do trường học là một trường vùng sâu nên một số em còn gặp nhiều khó khăn trong việc đi lại nhất là vào mùa mưa vì một phần các em sống ở trong kênh rạch. Các em thường đi học trễ hoặc nghỉ học. Một số phụ huynh do điều kiện kinh tế còn khó khăn nên chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em họ, chưa làm tốt công tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường. Điều này đã làm ảnh hưởng một phần đến kết quả giảng dạy và khó khăn trong việc phát triển toàn diện nhân cách cho các em. Ngoài những khó trên trên thì trong thực tế giảng dạy ở địa phương người giáo viên muốn học sinh mình viết đúng chính tả lại đang gặp rất nhiều khó khăn: Khó khăn từ giáo viên do sinh ra và lớn lên ở vùng Nam Bộ nên ảnh hưởng rất nhiều về chính tả phương ngữ vùng miền nên việc phát âm khi dạy chính tả nghe viết đã bị ảnh hưởng một phần đến kết quả của học sinh. Mặt khác nữa là do học sinh các em thường nói như thế nào viết thế vậy chưa hiểu được nghĩa của từ và chưa biết phân tích từ cần viết, thường viết theo thói quen, nguyên nhân là do mối quan hệ xã hội, giao tiếp trong cuộc sống, nhiều em còn nhút nhát mất tự tin tất cả đều ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em. Muốn đạt được điều này thì giáo viên phải nắm được một trong những yêu cầu quan trọng của việc dạy chính tả là giáo viên phải chấm, chữa bài cho học sinh thật chu đáo và trách nhiệm cao. Từ những khó khăn trên mà khi dạy chính tả ở trong trường hiện nay còn rất nhiều tranh cãi để cùng nhau tìm ra hướng khắc phục giải quyết như dự giờ góp ý trao đổi trong từng tiết học, dự thao giảng, mở chuyên đề. Song qua thực tế giảng dạy của bản thân với nhiều năm công tác cũng gặp không ít khó khăn từ chính bản thân và học sinh nên kết quả của từng năm học cũng không đạt như mong muốn. Có năm kết quả của học sinh cũng rất khả quan song cũng có năm thì học sinh lại làm cho bản thân không hài lòng, song từ những thành công, từ những thất bại đã giúp bản thân em thành công trong việc: giúp học sinh sửa các lỗi chính tả thường mắc. c/ Khảo sát học sinh. Trong năm học 2009-2010 em được nhà trường phân công dạy lớp 2/4 ở điểm trường lẻ với tổng số học sinh là 20 em, trong đó học sinh dân tộc Khơme là 10em nên việc tiếp thu tiếng Việt đối với các em là rất khó, gia đình các em sống chủ yếu là làm thuê, làm mướn, hầu hết các em đều ở trong các kênh rạch nên việc đi học không được thường xuyên, điều này đã làm ảnh hưởng đến việc truyền đạt kiến thức cũng như kết quả học tập của các em. Vào đầu năm học với mong muốn kết quả học tập của các em cuối năm đạt tốt bản thân đã khảo sát học sinh lớp mình bằng cách cho học sinh viết (giáo viên đọc cho học sịnh nghe viết vào vở một đoạn văn trong đó có nhiều từ viết sai chính tả, đọc theo chuẩn kiến thức kỹ năng của lớp 2) nhằm mục đích nắm bắt kết quả của năm học trước đồng thời có hướng khắc phục cho năm học tới. Kết quả kiểm tra như sau: TS HS Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5 20 2 3 9 6 Sau khi chấm bài xong em thống kê các lỗi sai của các em để biết các lỗi sai như sai về âm cuối n/ng; t/c; qu /v; s/x; dấu hỏi, ngã, nhiều em điểm dưới 5 là do các em viết sai theo quy tắc chính tả d//gi; ng/ ngh Kết luận: Trên đây là những thực tế dạy học ở địa phương. Thực tế này vẫn còn đang và được đóng góp rất nhiều tranh cãi từ phía giáo viên trong nhà trường. Song đối với bản thân từ những ý kiến đóng góp của Ban giám hiệu và của đồng nghiệp cùng với sự nỗ lực phấn đấu của bản thân vẫn tiếp tục áp dụng những biện pháp học hỏi từ đồng nghiệp, từ tài liệu tham khảo đã mang lại cho bản thân và học sinh có một kết quả đạt như mong muốn nhanh chóng, chắc chắn đồng thời gây hứng thú cho học sinh phát huy tính tích cực hơn khi học phân môn chính tả. GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ 1/ Đề xuất giải pháp: a. Một số tồn tại trong thực tế: Qua quá trình giảng dạy và theo dõi chất lượng phân môn chính tả, bản thân nhận thấy hầu hết các em thường mắc phải các loại lỗi sau: *. Lỗi về dấu thanh: Tiếng Việt có 6 thanh (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì nhiều học sinh không phân biệt được 2 thanh hỏi, ngã. Số lượng tiếng mang 2 thanh này không ít và rất phổ biến - kể cả những người có trình độ văn hoá cao. Ví dụ: Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành, lẩn lộn, *. Lỗi phụ âm đầu: - Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây: + c/k: Céo co +ng/qu: ông quại (ngoại), bên quài(ngoài) + g/gh: Con ghà , gê gớm +h/qu: quảng hốt (hoảng hốt), phá quại (phá hoại) + ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc, nghành nghề + ch/tr: Cây che, chiến chanh + s/x: Cây xả , xa mạc *.Lỗi âm cuối, vần: - Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây: + at/ac- ăt/ăc - ât/âc: mác mẻ, lường gạc, gặc lúa, nổi bậc, lấc phấc + an/ang- ân/âng: cây bàn, bàng bạc, khoai lan, hụt hẫn, tần lầu... +âu/ôi : ông Nậu (nội), cái gấu (gối)... + ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển + êt/êch; iêt/iêc: trắng bệt; mải miếc... +ut/uc:chim cúc; bão lục + uôn/ uông: khuôn nhạc... +uôt/ uôc: chải chuốc + ươn/ ương: sung sướn; lươn bổng *. Lỗi về âm chính: - Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau đây: + ai/ay/ây: Bàn tai; đi cầy; dậy học.. + ao/ au / âu: Hôm sao; mầu đỏ.. + iu / êu / iêu: Chìu chuộng; lim khiết; cây niu.. + oi / ôi/ ơi: Nôi gương; xoi nếp + ăm/ âm/: con tầm; sưu tằm.. + im/ iêm/ êm /em: tim thuốc, + ăp/ âp/: gập gỡ.. + ip/ iêp/ êp/ ep: số kíp; liên típ; thệp cưới.. + ui/ uôi: đầu đui; tủi tác.. + um/uôm: ao chum.. + ưu/ươu: ốc bưu, con khứu... b. Nguyên nhân chủ yếu: */ Lỗi về dấu thanh: Thực tế qua ngôn ngữ nói,từ khu vực Nghệ An trở vào phát âm không phân biệt được thanh hỏi, ngã. Hay nói đúng hơn trong phương ngữ khu vực miền Trung và miền Nam không có thanh ngã. Trong khi số lượng từ mang 2 thanh này khá lớn. Do đó đây là lỗi rất phổ biến ở học sinh. */. Lỗi khi viết âm đầu: Trong phương ngữ Bắc và Nam có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu ch/tr, d/gi, s/x . Mặt khác, trong khi một số vùng miền Bắc thường lẫn lộn các âm đầu l/n thì người Miền Nam thường lẫn lộn v/d, r/g. Ngoài ra, trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví dụ: âm “cờ” ghi bằng 3 chữ cái c / k /qu , âm “ngờ” ghi bằng ng/ngh, âm “gờ” ghi bằng g/gh) dù có những quy định riêng cho mỗi dạng khi ghép chữ, nhưng đối với học sinh tiểu học thì rất dễ lẫn lộn. */. Lỗi khi viết âm cuối: Đối với người Miền Nam, có thể nói việc phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm cuối n/ng và t/c. Mà số từ mang các vần này không nhỏ. Mặt khác hai bán âm cuối i,u/ lại được ghi bằng 4 con chữ i/y (trong: lai/lây), u/o (trong: sau/sao), ư/ươi (trong : tư/tươi) do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh các tỉnh phía Nam nói chung và tại địa phương nói riêng. */. Lỗi về âm chính: Có 2 nguyên nhân chính gây nên sự lẫn lộn về âm chính trong các vần sau: + Nguyên nhân thứ nhất là do sự phức tạp của chữ quốc ngữ: Nguyên âm /ă/ lại được ghi bằng chữ a trong các vần ay, au, các nguyên âm đôi : /ie; ươ; uô/ lại được ghi bằng các dạng iê; yê; ia; ya; ươ; ưa; uô; ua(bia; khuya; biên; tuyến; lửa; lương; mua; muôn); âm đệm /w/ lại được ghi bằng 2 con chữ u và o (ví dụ: hoa,huệ). + Nguyên nhân thứ hai là do cách phát âm lẫn lộn trong phương ngữ nam Bộ đối với các âm chính trong hầu hết các vần trên. c.Một số biện pháp khắc phục lỗi: */. Tích cực luyện phát âm đúng: Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải là người phát âm rõ tiếng, đúng chuẩn, đồng thời chú ý luyện phát âm cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm cuối. Việc rèn phát âm bắt đầu phải được thực hiện trong tiết Tập đọc và được thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học như Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn Đối với những học sinh người dân tộc, đặc biệt là những học sinh có vấn đề về mặt phát âm (nói ngọng, nói lắp..) giáo viên cần lưu ý học sinh phải chú ý nghe giáo viên phát âm để viết cho đúng. Vì vậy giáo viên phải cố gắng phát âm rõ ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học sinh viết đúng được. */. Phân biệt chính tả bằng phân tích, so sánh: Song song với việc phát âm, giáo viên có thể áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, phát hiện những điểm khác nhau để học sinh lưu ý và ghi nhớ. Ví dụ: Khi viết tiếng “làng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “làn”, giáo viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này: - làng = l + ang + thanh huyền - làn = l + an + thanh huyền. So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “làng” có âm cuối là “ng”, tiếng “làn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ không viết sai. */.Phân biệt bằng nghĩa từ: Một biện pháp khác để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giúp học sinh hiểu nghĩa chính xác của từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Tập đọc, Luyện từ và câunhưng trong tiết Chính tả cũng là một biện pháp tích cực, khi học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hoặc phân tích cấu tạo tiếng. Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh đọc chú giải , đặt câu (nếu học sinh đặt câu đúng có nghĩa là học sinh đã hiểu nghĩa của từ); hoặc cho học sinh tìm từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa hay dùng biện pháp miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh giúp các em hiểu đúng nghĩa của tứ đó Ví dụ: Phân biệt bàn và bàng (trong từ đơn): Bàn= cái bàn – bàng = cây bàng hoặc phân biệt Bác và bát : bác = anh của ba, Bác Hồ - bát = đồ dùng ăn cơm (bát đũa). Ví dụ: Phân biệt chiêng và chiên. Giải nghĩa từ chiêng: Giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh ảnh cái chiêng hoặc miêu tả đặc điểm (chiêng là một nhạc cụ làm bằng đồng hình tròn, đánh bằng dùi,âm thanh rất vang...) Giải nghĩa từ chiên: Giáo viên có thể cho học sinh đặt câu với từ chiên hoặc giải thích bằng cách nói thông thường rất gần gũi với các em: chiên có nghĩa là làm chín thức ăn bằng cách cho thức ăn vào chảo dầu hoặc mỡ đun trực tiếp trên bếp. Với những từ nhiều tiếng, từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để gợi lại nghĩa từ hoặc giúp học sinh giải nghĩa từ. */. Ghi nhớ một số mẹo luật chính tả: Một số hiện tượng chính tả mang tính quy luật đối với hàng loạt từ có thể giúp cho học sinh khắc phục lỗi chính tả một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. Luật bổng - trầm: Qui luật về dấu hỏi, ngã trong các từ láy (mát mẻ, vui vẻ, sạch sẽ...) Trong các từ láy âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố ở cùng một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc nguyên tắc : Ngang- sắc = hỏi/ Huyền- nặng = ngã. Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).Đây là loại lỗi mà học sinh địa phương thường mắc nên giáo viên cần cho học sinh nắm vững âm chính trong tiếng Việt, cần tập phát âm đúng chuẩn, tập viết nhiều lần. Ví dụ: Ngang + hỏi: Nhỏ nhoi, trẻ trung, vui vẻ Sắc + hỏi: Mát mẻ, sắc sảo, vắng vẻ Hỏi + hỏi: Thỏ thẻ, hổn hển, rủ rỉ Huyền + ngã: Mỡ màng, lững lờ, vồn vã Nặng + ngã: Đẹp đẽ, mạnh mẽ, vật vã Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như: + Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé, chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chào mào, chiền chiện, chãu chàng, chèo bẻo, chìa vôi + Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hôNgoài ra giáo viên cần hướng dẫn các em nắm vững quy tắc chính tả nhớ kỹ mặt chữ trong từng phụ âm đầu dễ lẫn lộn... + Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn: Đa số từ chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc có vần ênh: Gập ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh Hầu hết các từ tận cùng là ng hoặc nh là từ tượng thanh: oang oang, đùng đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng, lẻng kẻng, đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ tượng hình: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân. Để sửa loại lỗi này giáo viên cần cho học sinh hiểu được âm tiết tiếng Việt được cấu thành bởi mấy thành phần, là những thành phần nào, vị trí của từng thành phần trong âm tiết.. */. Vận dụng củng cố bằng các bài tập chính tả: Giáo viên nên cho học sinh thực hiện các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc chính tả để các em ghi nhớ. Bài tập trắc nghiệm: * Khoanh tròn vào chữ cái trước những chữ viết đúng chính tả: a. Hướng dẫn b. Hướng dẩn c. Giải lụa d. Dải lụa * Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và S trước những chữ viết sai chính tả. Rau muống Rau muốn Chải chuốt Chải chuốc Cây bàn Cây bàng * Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết đúng chính tả: A B bênh trái bên vực bện tật bệnh tóc Bài tập lựa chọn: * Chọn từ thích hợp trong ngoặc đơn điền vào chỗ trống trong câu sau: Cháu bé đang uống .(sửa, sữa) Học sịnh mũ chào thầy giáo.(ngả, ngã) Đôi này đế rất (giày, dày). Sau khi .con , chị ấy trông thật(xinh, sinh). * Chọn từ thích hợp trong ngoặc đơn điền vào chỗ trống trong câu sau: Học sinh .đèn học bài ..đêm khuya.(trong, chong) Lan thích nghe kể .hơn đọc..(truyện, chuyện) Trời nhiều, gió heo lại về.( mây, may) Bài tập phát hiện: Tìm từ sai chính ta trong câu sau và sửa lại cho đúng: Xuân Diệu là nhà thơ trứ tình nổi tiếng. Cả phòng khét lẹc mùi thuốc lá. Bức tường bị nức ngang, nức dọc. Bài tập điền khuyết: Điền vào chỗ trống: S hay x: chimẻ, uất khẩu, năng ..uất. Ươn hay ương: bay ượn, b.. chải Iêt hay iêc: đi biền b.., xanh biêng b. Bài tập tìm từ: *Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau: Trái nghĩa với thật thà Cây trồng để làm cảnh. Tìm từ chỉ hoạt động: Chứa tiếng có vần ươt Chứa tiếng có vần ước. Bài tập giải câu đố: Em chọn dấu hỏi hay dấu ngã để đặt trên những chữ in đậm rồi giải câu đố sau: Cánh gì cánh chăng biết bay Chim hay sà xuống nơi đây kiếm mồi Đôi ngàn vạn giọt mồ hôi Bát cơm trắng deo, đia xôi thơm bùi. Bài tập đặt câu để phân biệt hai từ trong từng cặp từ sau: Trút – trúc Lụt – lục Ngoài ra, việc kiểm tra “viết đúng chính tả” của giáo viên đối với học sinh không chỉ ở môn Chính tả mà cũng cần lưu ý nhắc nhở học sinh trong tất cả các môn học khác trong chương trình, đặc biệt là môn Tập làm văn. Việc này phải được tiến hành kiên trì và liên tục để giúp học sinh dần có ý thức rèn kỹ năng “viết đúng” trong mọi tình huống. Đề kiểm tra: Phần 1: (5điểm)Nghe -viết: Bài:Dòng suối nước – SGK trang 137. Ngôi sao ngủ với bầu trời Bé nằm ngủ với à ơi tiếng bà Gió còn ngủ tận thung xa Để con chim ngủ la đà ngọn cây Núi cao ngủ giữa chân mây Quả sim béo mọng ngủ ngay vệ đường Bắp n
File đính kèm:
- sang kien chinh ta 2.doc