Kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi Toán Lớp 4 - Lớp 5
Học sinh lớp 4; lớp 5, tư duy của các em đã phát triển. Một số em khá, giỏi thích tìm tòi, khám phá những cái mới. Đặc biệt, những bài toán khó thường rất hấp dẫn với các em. Các em dễ nhàm chán hoặc không hứng thú với những bài toán dễ và đơn giản. Mặt khác, học sinh giỏi đạt giải cao trong các kì thi còn do nhiều yếu tố: Tố chất học sinh, sự quan tâm của gia đình, việc bồi dưỡng của giáo viên, và không ngoại trừ yếu tố may mắn. Tuy nhiên chúng ta không chỉ chờ đợi và cầu mong ở sự may mắn. Phương ngôn có câu: Trở thành nhân tài một phần do tài năng còn chín mươi chín phần là ở sự tôi luyện. Theo quan điểm của tôi, điều quan trọng hơn cả là chúng ta phải trang bị cho các em vững vàng kiến thức trước khi đi thi. Do vậy việc bồi dưỡng vẫn là quan trọng hơn cả. Song bồi dưỡng học sinh giỏi những nội dung gì, bồi dưỡng như thế nào để đạt hiệu quả? Điều đó quả là một vấn đề còn nan giải.
Qua một số năm bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi rút ra một số kinh nghiệm nhỏ, xin mạnh dạn trao đổi để đồng nghiệp có thể tham khảo và vận dụng.
KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI TOÁN LỚP 4 – LỚP5 Họ và tên : Phạm Xuân Toạn . Trình độ đào tạo : Đại học . Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Trần Hưng Đạo. I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Học sinh lớp 4; lớp 5, tư duy của các em đã phát triển. Một số em khá, giỏi thích tìm tòi, khám phá những cái mới. Đặc biệt, những bài toán khó thường rất hấp dẫn với các em. Các em dễ nhàm chán hoặc không hứng thú với những bài toán dễ và đơn giản. Mặt khác, học sinh giỏi đạt giải cao trong các kì thi còn do nhiều yếu tố: Tố chất học sinh, sự quan tâm của gia đình, việc bồi dưỡng của giáo viên, và không ngoại trừ yếu tố may mắn. Tuy nhiên chúng ta không chỉ chờ đợi và cầu mong ở sự may mắn. Phương ngôn có câu: Trở thành nhân tài một phần do tài năng còn chín mươi chín phần là ở sự tôi luyện. Theo quan điểm của tôi, điều quan trọng hơn cả là chúng ta phải trang bị cho các em vững vàng kiến thức trước khi đi thi. Do vậy việc bồi dưỡng vẫn là quan trọng hơn cả. Song bồi dưỡng học sinh giỏi những nội dung gì, bồi dưỡng như thế nào để đạt hiệu quả? Điều đó quả là một vấn đề còn nan giải. Qua một số năm bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi rút ra một số kinh nghiệm nhỏ, xin mạnh dạn trao đổi để đồng nghiệp có thể tham khảo và vận dụng. II. THỰC TRẠNG KHI CHƯA CÓ KINH NGHIỆM: Khi chưa có kinh nghiệm, giáo viên soạn thảo chương trình bồi dưỡng hết sức khó khăn, vất vả. Việc truyền thụ kiến thức cho học sinh còn gượng ép, máy móc. Học sinh tiếp thu bài còn mang tính thụ động, gò ép. Hiệu quả: Số lượng học sinh đạt giải trong các kì thi học sinh giỏi còn thấp, thậm chí có năm không có. III. NỘI DUNG CỦA KINH NGHIỆM: 1/ Vai trò người thầy: Trước hết, ta phải xác định vai trò của người thầy là hết sức quan trọng. Bởi vì người thầy có vai trò chỉ đạo và hướng dẫn học sinh, gợi ý, dẫn dắt học sinh để đi đến các phương pháp học nói chung và giải toán nói riêng. Nếu học sinh có kiến thức cơ bản tốt, có tố chất thông minh mà không được bồi dưỡng, nâng cao tốt thì sẽ ít có hiệu quả hoặc không có hiệu quả. Đồng thời giáo viên lại phải lựa chọn đúng đối tượng học sinh vào bồi dưỡng và phải soạn thảo chương trình bồi dưỡng một cách hợp lí, khoa học và sáng tạo. Thực tế cho thấy một số em có tố chất tốt nhưng ý thức học tập không cao, ẩu thả, thiếu nỗ lực cố gắng thường thi đạt kết quả thấp. Vì thế, để học sinh luôn cố gắng hết khả năng của mình, giáo viên cần thường xuyên tác động tới ý thức học tập của học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau, như : Nêu gương các anh chị những năm trước, kể cho các em nghe một số kì thi tiêu biểu,; cho các em thấy được nếu nỗ lực cố gắng sẽ đạt giải cao trong các kì thi là niềm vinh dự tự hào không chỉ cho mình mà còn cho cả bố mẹ, thầy cô, bạn bè , trường, lớp,; ngược lại nếu thiếu cố gắng một chút thôi có thể không đem lại kết quả gì. 2/ Lựa chọn đúng đối tượng học sinh: Giáo viên phải đánh giá học sinh một cách khách quan, chính xác, lựa chọn đúng đối tượng học sinh để bồi dưỡng. Việc lựa chọn đúng không chỉ nâng cao hiệu quả bồi dưỡng mà còn tránh được việc bỏ sót những em học giỏi, hoặc chọn nhầm những em không có tố chất theo học sẽ bị quá sức. * Những căn cứ để lựa chọn: + Lựa chọn các đối tượng học sinh thông qua các giờ học: - Những học sinh sáng dạ thường chú ý nghe giảng, hăng hái phát biểu ý kiến, ý kiến thường đúng và có sáng tạo. - Cũng cần phân biệt với những em hăng hái nhưng không thông minh thì thường phát biểu trệch hướng dẫn dắt của giáo viên, có khi không đâu vào đâu. - Ngược lại có những em tuy ít phát biểu nhưng khi gọi tên và yêu cầu trình bày thì những em này thường trả lời chính xác hoặc có những ý hay. + Lựa chọn dựa vào việc chấm, chữa bài: Những em thông minh, chắc chắn thường có ý thức học tập tốt, làm bài đầy đủ, trình bày bài thường chặt chẽ, khoa học và thường có ý thức xung phong chữa bài tập cũ hoặc có ý kiến hay, góp phần cho bài tập phong phú hơn. + Lựa chọn thông qua các vòng thi kiểm tra: - Để việc thi, kiểm tra, đánh giá đúng chất lượng học sinh thì ngoài việc thực hiện đúng quy chế thi cử như: sắp xếp chỗ ngồi (theo thứ tự a,b,c), giám sát chặt chẽ, quán triệt học sinh không được nhìn bài của bạn, đồng thời cũng không để cho bạn nhìn bài của mình; cũng cần chú ý sắp xếp những em hàng ngày ngồi gần nhau thì đến khi thi hay kiểm tra phải ngồi xa nhau. - Khi chấm bài thi, giáo viên cần phải vận dụng biểu điểm linh hoạt. Cần ưu tiên điểm cho những bài làm có sự sáng tạo, trình bày bài khoa học. - Tuy nhiên để việc thi cử, kiểm tra đạt hiệu quả, giáo viên cần phải ra đề trên cơ sở những dạng bài tập đã được ôn và cần có một bài khó, nâng cao hơn đòi hỏi học sinh vận dụng những kiến thức đã học để làm bài. Trên cơ sở đó, giáo viên đánh giá được những em nào có năng lực thực sự trong học tập. - Để đánh giá một cách chính xác và nắm được mức độ tiếp thu cũng như sự tiến bộ của học sinh thì cần tổ chức thi, kiểm tra và sàng lọc qua nhiều vòng. 3/ Xây dựng chương trình bồi dưỡng: Hiện nay, chương trình bồi dưỡng không có sách hướng dẫn chi tiết, cụ thể từng tiết, từng buổi học như trong chương trình chính khóa. Hơn nữa, hầu hết sách nâng cao, sách tham khảo hiện nay không soạn thảo theo đúng trình tự như chương trình học chính khóa, mà thường đi theo các dạng. Trong khi đó, các trường thường tổ chức học sinh vừa học chính khóa vừa phối hợp nâng cao. Vì thế soạn thảo chương trình bồi dưỡng là một việc làm hết sức quan trọng và rất khó khăn nếu như chúng ta không có sự tham khảo, tìm tòi và chọn lọc tốt. Điều cần thiết là giáo viên cần phải nắm vững nội dung, chương trình học, cần phải soạn thảo nội dung dẫn dắt học sinh từ cái cơ bản của nội dung chương trình học chính khóa, tiến tới chương trình nâng cao (tức là, trước hết phải khắc sâu kiến thức cơ bản của nội dung học chính khóa, từ đó vận dụng để nâng cao dần). Cần soạn thảo chương trình theo vòng xoáy: Từ cơ bản đến nâng cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đồng thời cũng phải có ôn tập, củng cố. Ví dụ: Cứ sau 2 đến 3 tiết củng cố kiến thức cơ bản và nâng cao thì cần có 1 tiết luyện tập, củng cố và cứ 6 đến 7 tiết thì cần có 1 tiết ôn tập hay luyện tập chung để củng cố khắc sâu. * Cần soạn thảo 1 tiết học có những nội dung sau: - Kiến thức truyền đạt (lí thuyết, ví dụ, ) - Bài tập vận dụng. - Bài tập về nhà luyện thêm (tương tự như bài ở lớp). - Cần phải soạn thảo nội dung chương trình cho việc bồi dưỡng đảm bảo thời lượng: Tiết; Tuần; Học kì, Cả năm. Tuy nhiên, việc soạn thảo chương trình còn tùy thuộc vào mức độ tiếp thu của từng học sinh (làm sao cho các em có thể “tiêu hóa” được). Cần giúp các em tổng hợp các dạng bài, các phương pháp giải. Vì hầu hết các em chưa tự mình tổng hợp được mà đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên. Để các em vững vàng kiến thức, mở rộng được nhiều dạng bài tập thì mỗi dạng bài cần phải luyện tập nhiều lần, đưa ra nhiều cách giải. Đồng thời thỉnh thoảng phải củng cố, tổng hợp lại để khắc sâu. Giáo viên cần phải đầu tư nhiều thời gian, tham khảo nhiều tài liệu để đúc rút và cô đọng nội dung chương trình bồi dưỡng, phù hợp với đối tượng học sinh và thời gian ôn luyện. 4/ Dạy như thế nào cho đạt hiệu quả: Trước hết phải chọn lọc những phương pháp giải dễ hiểu nhất để hướng dẫn học sinh. Không nên máy móc theo các sách giải. Cần vận dụng và đổi mới phương pháp dạy học, tạo cho học sinh có cách học mới, không gò bó, không áp đặt, tôn trọng và khích lệ những sáng tạo mà học sinh đưa ra. Những bài kiến thức mới, giáo viên cần lấy ví dụ và ra bài tập mang tính chất vui chơi để gây hứng thú học tập cho học sinh, đồng thời giúp các em ghi nhớ được tốt hơn. Ví dụ: Ra bài toán vui, bài toán là một bài thơ, bài toán lấy tên học sinh hay đáp số là ngày, tháng có ý nghĩa, đáng ghi nhớ, hoặc lấy ví dụ mang tính chất thực tiễn, dễ hiểu, Tuy nhiên những bài toán như thế, giáo viên cần tìm hiểu kĩ, thử và kiểm tra kết quả nhiều lần. Giáo viên tung các bài tập cho học sinh phải luôn theo hướng “mở”, có như vậy mới phát huy và làm phong phú sự sáng tạo của học sinh. Hầu hết ở các bài luyện tập, giáo viên chỉ nên gợi mở để học sinh tự tìm ra cách giải, không nên làm thay học sinh, giải cho học sinh hoàn toàn hoặc để cho các em bó tay rồi chữa. Ngược lại, khi chữa bài, giáo viên cần phải giải một cách chi tiết, tỉ mỉ (không giải tắt). Đồng thời uốn nắn những sai sót và chấn chỉnh cách trình bày của học sinh một cách kịp thời. Cần theo dõi và chấm bài làm của học sinh hàng ngày thật kĩ để kịp thời phát hiện, uốn nắn những thiếu sót cho các em. Một số bài để khắc sâu kiến thức cho các em, giáo viên có thể gợi ý để các em tìm ra nhiều cách giải, hiểu sâu sắc được bản chất của bài toán. Như thế vừa phát huy được tính độc lập sáng tạo của học sinh, vừa gây được hứng thú học tập với các em. Để giúp học sinh học tốt môn toán nói chung và môn toán ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần giúp học sinh nắm bắt và vận dụng quy trình giải một bài toán, phương pháp kiểm tra kết quả vào việc làm toán. + Các bước giải một bài toán: - Bước 1. Đọc kĩ đề (3 - 5 lần), xác định dự kiện đã biết và cái phải tìm rồi tóm tắt bài toán. - Bước 2. Xác định bài toán thuộc dạng nào đã học, tìm tòi cách giải và giải ra giấy nháp. - Bước 3. Thử lại kết quả. - Bước 4. Ghi vào vở rồi đọc lại bài làm. * Các phương pháp kiểm tra kết quả: - So sánh với thực tiễn. - Làm phép tính ngược lại. - Giải theo cách khác. - Thay kết quả vào để kiểm tra. IV. HIỆU QUẢ KHI ÁP DỤNG: Tôi đã áp dụng phương pháp trên và thu được kết quả như sau: - Năm học 1998 – 1999, tôi áp dụng kinh nghiệm vào việc bồi dưỡng học sinh giỏi khối 4 và trong số 7 em dự thi, đã đạt 6 em. Trong đó: Cấp Tỉnh 3 em (1 giải Nhì, 1 giải Ba, 1 giải Khuyến khích). Cấp Huyện 3 em. - Năm học 1999 – 2000, tiếp tục áp dụng kinh nghiệm vào việc bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 4, và lần đầu áp dụng bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 5. Kết quả là: + Khối 4 đạt 2/7 em tham gia dự thi cấp Huyện, không thi cấp Tỉnh (Kết quả còn do nhiều nguyên nhân, việc bồi dưỡng gián đoạn). + Khối 5 đạt 6/7 em (4 em cấp Tỉnh, 2 em cấp Huyện). - Năm học 2000 – 2001, tiếp tục áp dụng kinh nghiệm và kết quả là: + Khối 4 đạt 13/15 em cấp Huyện (không thi cấp Tỉnh). + Khối 5 đạt 11/14 em (Cấp Tỉnh 7 em, cấp Huyện 4 em). - Năm học 2001 – 2002: + Khối 4 đạt 9/10 em cấp Huyện (Không thi cấp Tỉnh). + Khối 5 đạt 9/10 em (Cấp Tỉnh 7 em, cấp Huyện 2 em). - Năm học 2002 – 2003: + Khối 4: Không được phân công bồi dưỡng. (Cấp Huyện đạt 5/12 em dự thi). + Khối 5 đạt 9/12 em cấp Tỉnh. - Năm học 2003 – 2004: + Khối 4: Không được phân công bồi dưỡng. (Cấp Huyện đạt 3/12 em dự thi). + Khối 5 đạt 10/12 em cấp Tỉnh. - Năm 2004 – 2005: + Khối 4: Không tham gia bồi dưỡng. (Cấp Huyện đạt 1/12 em dự thi). + Khối 5 đạt 11/12 em cấp Tỉnh. - Năm học 2005 – 2006: + Khối 4: Không tổ chức thi. + Khối 5 đạt 7/8 em cấp Tỉnh. Từ năm học 2006 – 2007 đến nay, không tổ chức thi học sinh giỏi các cấp. V. BÀI HỌC RÚT RA: - Xác định vai trò của người thầy là vô cùng quan trọng. - Lựa chọn đúng đối tượng học sinh để đưa vào bồi dưỡng. - Xây dựng nội dung, chương trình bồi dưỡng khoa học, sáng tạo. - Lựa chọn phương pháp dạy học dễ hiểu và không ngừng đổi mới. VI. LỜI KẾT: Qua những năm bồi dưỡng, tôi nhận thấy rằng người thầy cần phải không ngừng học hỏi và tự học hỏi để nâng cao trình độ, đúc rút kinh nghiệm, thường xuyên xây dựng nội dung chương trình và sáng tạo trong công tác giảng dạy. Tuy nhiên, để có những vụ mùa bội thu, ngoài vai trò của người thầy, ngoài những nỗ lực cố gắng của học sinh, đòi hỏi phải có sự quan tâm hỗ trợ của nhà trường để giáo viên có nhiều tài liệu tham khảo, có nhiều thời gian nghiên cứu và tổ chức bồi dưỡng. Đồng thời giáo viên cũng cần phải biết lắng nghe ý kiến đóng góp của đồng chí, đồng nghiệp, của phụ huynh học sinh. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi, bản thân tôi đã áp dụng và thu được những kết quả khả quan. Rất mong các đồng chí đồng nghiệp tham khảo và đóng góp thêm ý kiến. Tôi xin chân thành cảm ơn! EaKar, ngày 10 tháng 01 năm 2010 Người viết : Phạm Xuân Toạn
File đính kèm:
- KINH NGHIÊM (TOẠN).doc1.doc