Luận văn Biện pháp nâng cao năng lực tài chính đối với các doanh nghiệp cảng biển Việt Nam
Tóm lại, quá trình vận động của vốn, hay cũng chính là quá trình sản xuất
kinh doanh diễn ra được là nhờ hệ thống các mối quan hệ của doanh nghiệp với
môi trường xung quanh nó. Hệ thống các mối quan hệ đó rất phức tạp, đan xen
lẫn nhau và chia thành các nhóm cơ bản sau:
Nhóm 1: Các mối quan hệ giữa doanh nghiệp và Nhà nước. Đây là mối
quan hệ nộp, cấp. Nhà nước có thể cấp vốn, góp vốn cho doanh nghiệp. Doanh
nghiệp có trách nhiệm nộp các khoản nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước.
Nhóm 2: Các mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân
khác ở các thị trường. Đây là các quan hệ trong việc mua bán, trao đổi hàng
hóa, sản phẩm ở thị trường hàng hóa; mua bán trao đổi quyền sử dụng sức lao
động ở thị trường lao động hoặc trao đổi mua bán quyền sử dụng vốn ở thị
trường tài chính.
Nhóm 3: Các mối quan hệ phát sinh trong nội bộ của doanh nghiệp. Đây
là các quan hệ chuyển giao vốn, quan hệ trong việc thu hộ, chi hộ giữa các bộ
phận trong một doanh nghiệp. Đấy cũng chính là quan hệ giữa doanh nghiệp và
cán bộ công nhân viên như: việc thanh toán lương, thưởng, vay, lãi vay
1 MỤC LỤC CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH, NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP CẢNG BIỂN VIỆT NAM ........................................ 3 1.1. Cơ sở lý luận về tài chính, năng lực tài chính của một doanh nghiệp và năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam. ............................. 3 1.1.1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp. .................................................... 3 1.1.2. Khái niệm năng lực tài chính doanh nghiệp. ......................................... 5 1.1.3. Khái niệm năng lực tài chính doanh nghiệp cảng biển. ........................ 5 1.1.3.1. Khái niệm cảng biển. ............................................................................. 5 1.1.3.2.Năng lực tài chính doanh nghiệp cảng biển. ........................................ 6 1.2. Nhiệm vụ, vai trò của việc phân tích năng lực tài chính của doanh nghiệp. .................................................................................................................. 7 1.2.1. Nhiệm vụ của việc phân tích năng lực tài chính của doanh nghiệp. .... 7 1.2.2. Vai trò của việc phân tích năng lực tài chính của doanh nghiệp. ........ 7 1.3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam. ................................................................................................... 12 1.3.1. Việc nâng cao năng lực tài chính sẽ giúp tối đa hóa giá trị và đạt được mục tiêu tăng trưởng của cảng biển. ............................................................... 12 1.3.2. Việc nâng cao năng lực tài chính giúp các doanh nghiệp cảng biển tăng cường khả năng đối phó với những biến động của nền kinh tế. .......... 12 1.3.3. Việc nâng cao năng lực tài chính giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp cảng biển trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. ... 12 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam. ................................................................................................... 13 1.5. Các nhóm chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính doanh nghiệp cảng biển.16 1.5.1. Nhóm tỷ suất hiệu quả sinh lời[25, tr. 65] .............................................. 16 1.5.3. Nhóm hệ số phản ánh khả năng thanh toán:[23] .................................. 17 1.6. Phạm vi nghiên cứu của đề tài. ................................................................. 17 2 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG CẢNG BIỂN VIỆT NAM,Error! Bookmark not defined. 2.1. Khái quát hệ thống các doanh nghiệp cảng biển Việt NamError! Bookmark not defined. 2.2. Cơ sở hạ tầng của hệ thống cảng biển Việt Nam.Error! Bookmark not defined. 2.2.1. Cơ sở hạ tầng của hệ thống cảng biển Nhóm 1 ..... Error! Bookmark not defined. 2.2.2. Cơ sở hạ tầng của hệ thống cảng biển Nhóm 2 ..... Error! Bookmark not defined. 2.2.3. Cơ sở hạ tầng của hệ thống cảng biển Nhóm 3 ..... Error! Bookmark not defined. 2.2.4. Cơ sở hạ tầng của hệ thống cảng biển Nhóm 4 ..... Error! Bookmark not defined. 2.2.5. Cơ sở hạ tầng của hệ thống cảng biển Nhóm 5 ..... Error! Bookmark not defined. 2.2.6. Cơ sở hạ tầng của hệ thống cảng biển Nhóm 6 ..... Error! Bookmark not defined. 2.3 . Mô hình tổ chức quản lý của các doanh nghiệp cảng biển Việt Nam.Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ TÀI CHÍNH, NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CẢNG BIỂN VIỆT NAM ............................ 19 3.1. Tình hình huy động vốn và thực hiện đầu tư khai thác cảng biển Việt Nam. .................................................................................................................... 19 3.1.1. Nguồn vốn đầu tư ..................................................................................................... 19 3.1.2. Tình hình thực hiện hoạt động đầu tư ................................................................... 24 3.2. Phân tích các chỉ tiêu tài chính đặc trưng của một số doanh nghiệp cảng biển Việt Nam. .......................................................................................... 30 3.2.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh cấu trúc tài chính ........................................................... 30 3.2.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán ...................................................... 40 3.3. Đánh giá ban đầu về năng lực tài chính của hệ thống cảng biển Việt Nam. .................................................................................................................... 50 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 56 3 CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH, NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP CẢNG BIỂN VIỆT NAM 1.1. Cơ sở lý luận về tài chính, năng lực tài chính của một doanh nghiệp và năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam. 1.1.1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào thì các doanh nghiệp phải có một lượng vốn ban đầu nhất định được huy động từ các nguồn khác nhau như: Vốn tự có, vốn do ngân sách cấp, vốn do nhận góp vốn liên doanh liên kết, vốn huy động được từ việc phát hành chứng khoán hoặc vay của ngân hàngSố vốn ban đầu đó sẽ được đầu tư vào các mục đích khác nhau như: Xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị, vật tư và thuê nhân côngNhư vậy, số vốn này khi phân phối cho các mục đích khác nhau thì hình thái của nó không còn giữ nguyên dưới dạng tiền tệ như ban đầu mà đã biến đổi sang hình thái khác là những hiện vật như nhà xưởng, máy móc thiết bị, đối tượng lao động.[25, tr.5] Quá trình phân chia và biến đổi hình thái của vốn như vậy được gọi là quá trình lưu thông thứ nhất của quá trình sản xuất kinh doanh. Quá trình tiếp theo là sự kết hợp của các yếu tố vật chất nói trên để tạo ra một dạng vật chất mới là sản phẩm dở dang, kết thúc quá trình này thì thành phẩm mới được xuất hiện. Đây chính là quá trình thứ hai: Sản xuất sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp sau khi được sản xuất ra thì sẽ mang đi tiêu thụ và như vậy vốn dưới dạng thành phẩm sẽ trở lại hình thái tiền tệ ban đầu thông qua khoản thu bán hàng của doanh nghiệp. Quá trình vận động như vậy lặp đi lặp lại liên tục và có tính chất chu kỳ. Chính nhờ sự vận động biến đổi hình thái như trên của vốn tạo ra quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 4 Tóm lại, quá trình vận động của vốn, hay cũng chính là quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra được là nhờ hệ thống các mối quan hệ của doanh nghiệp với môi trường xung quanh nó. Hệ thống các mối quan hệ đó rất phức tạp, đan xen lẫn nhau và chia thành các nhóm cơ bản sau: Nhóm 1: Các mối quan hệ giữa doanh nghiệp và Nhà nước. Đây là mối quan hệ nộp, cấp. Nhà nước có thể cấp vốn, góp vốn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có trách nhiệm nộp các khoản nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước. Nhóm 2: Các mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác ở các thị trường. Đây là các quan hệ trong việc mua bán, trao đổi hàng hóa, sản phẩm ở thị trường hàng hóa; mua bán trao đổi quyền sử dụng sức lao động ở thị trường lao động hoặc trao đổi mua bán quyền sử dụng vốn ở thị trường tài chính. Nhóm 3: Các mối quan hệ phát sinh trong nội bộ của doanh nghiệp. Đây là các quan hệ chuyển giao vốn, quan hệ trong việc thu hộ, chi hộ giữa các bộ phận trong một doanh nghiệp. Đấy cũng chính là quan hệ giữa doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên như: việc thanh toán lương, thưởng, vay, lãi vay Tuy nhiên hệ thống các mối quan hệ trên đều có điểm chung là: - Đó là những mối quan hệ kinh tế, những quan hệ liên quan đến công việc tạo ra sản phẩm và giá trị mới cho doanh nghiệp. - Chúng đều được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ thông qua đồng tiền để đo lường, đánh giá. - Chúng đều nảy sinh trong quá trình tạo ra và phân chia các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Chỉ cần một sự mất cân đối hoặc sự phá vỡ của một trong những mối quan hệ trên thì quá trình vận động biến đổi hình thái của vốn có thể bị đình trệ, quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì thế mà sẽ bị đảo lộn thậm chí có thể dẫn đến phá sản. Hệ thống các mối quan hệ như vậy được coi là tài chính của doanh nghiệp. 5 Tóm lại, tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế trong phân phối các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.[23] 1.1.2. Khái niệm năng lực tài chính doanh nghiệp. Theo Từ điển Tiếng Việt, “năng lực” là khả năng đủ để làm một công việc nào đó hay là những điều kiện được tạo ra hoặc vốn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Còn tài chính là một phạm trù kinh tế, phản ánh các quan hệ phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị; phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu nhất định. Như vậy, năng lực tài chính của một doanh nghiệp là nguồn lực tài chính của bản thân doanh nghiệp, là khả năng tạo tiền, tổ chức lưu chuyển tiền hợp lý, đảm bảo khả năng thanh toán thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời đủ để đảm bảo và duy trì hoạt động kinh doanh được tiến hành bình thường.[24] 1.1.3. Khái niệm năng lực tài chính doanh nghiệp cảng biển. 1.1.3.1. Khái niệm cảng biển. Theo điều 59 chương V Bộ luật Hàng hải Việt Nam: Cảng biển là khu vực bao gồm vùng đất cảng và vùng nước cảng, được xây dựng kết cấu hạ tầng và lắp đặt trang thiết bị cho tàu biển ra, vào hoạt động để bốc dỡ hàng hóa, đón trả hành khách và thực hiện các dịch vụ khác. Theo Từ điển Bách khoa 1995: Cảng biển là khu vực đất và nước ở biển có những công trình xây dựng và trang thiết bị phục vụ cho tàu thuyền cập bến, bốc dỡ hàng hóa, khách hàng lên xuống, sửa chữa phương tiện vận tải biển, bảo quản hàng hóa và thực hiện các công việc khác phục vụ quá trình vận tải đường biển. Cảng có cầu cảng, đường vận chuyển có thể là đường sắt, đường bộ, kho hàng, xưởng sửa chữa. 6 Theo quan điểm hiện đại: Cảng biển không phải là điểm cuối hoặc kết thúc của quá trình vận tải mà là điểm luân chuyển hàng hóa và hành khách. Nói cách khác, cảng như một mắt xích trong dây chuyền vận tải. Theo sách "Quy hoạch cảng": Cảng là tập hợp các hạng mục công trình và thiết bị để đảm bảo cho tàu neo đậu và xếp dỡ hàng hóa giữa các phương thức vận tải đường thủy, sắt, bộ. Như vậy có thể kết luận: Cảng biển là khu vực bao gồm vùng đất cảng và vùng nước cảng, nơi xậy dựng các công trình như luồng tàu, đê chắn sóng, cầu cảng, kho bãi, nhà xưởng... và lắp đặt thiết bị phục vụ cho tàu biển ra vào hoạt động để bốc dỡ hàng hóa đón trả hành khách và thực hiện các dịch vụ khác phục vụ quá trình vận tải đường biển. Thuật ngữ "cảng biển" không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với việc vị trí của cảng phải đặt ở vị trí cửa biển hay ven biển mà có thể nằm sâu trong các cửa sông, nhưng phải có luồng vào cảng tiếp nhận được tàu biển. Theo Luật Hàng hải Việt Nam nếu dựa theo quy mô và tầm quan trọng thì cảng biển được phân loại thành các loại sau đây: - Cảng biển loại I là cảng đặc biệt quan trọng, có quy mô lớn, phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc liên vùng. - Cảng biển loại II là cảng biển quan trọng, có quy mô vừa, phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội của vùng và địa phương. - Cảng biển loại III là cảng biển có quy mô nhỏ, phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp. Cảng biển có một hoặc nhiều bến cảng. Bến cảng có một hoặc nhiều cầu cảng. Một cảng biển sẽ bao gồm hai khu vực: vùng đất cảng và vùng nước cảng. Mỗi bến cảng, tùy thuộc vào chức năng của chúng được thiết kế cho phù hợp với loại hàng mà bến cảng đó phục vụ như: bến chuyên dụng bốc dỡ hàng rời, bến chuyên dụng bốc dỡ hàng lỏng, bến chuyên dụng bốc dỡ hàng container... 1.1.3.2.Năng lực tài chính doanh nghiệp cảng biển. 7 Hiện nay chưa có tài liệu nào nêu ra khái niệm năng lực tài chính của một doanh nghiệp cảng biển cụ thể. Tuy nhiên từ khái niệm năng lực tài chính của doanh nghiệp nói chung ta có thể hiểu: Năng lực tài chính của một doanh nghiệp cảng biển là nguồn lực tài chính của bản thân cảng biển đó; bao gồm từ khâu huy động vốn đến khâu trả nợ và quá trình sử dụng nguồn vốn đã huy động được để đạt hiệu quả cao nhất. 1.2. Nhiệm vụ, vai trò của việc phân tích năng lực tài chính của doanh nghiệp. 1.2.1. Nhiệm vụ của việc phân tích năng lực tài chính của doanh nghiệp. Nhiệm vụ quan trọng nhất của việc phân tích năng lực tài chính là việc cung cấp những thông tin chính xác về mọi mặt tài chính của doanh nghiệp, bao gồm: - Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các mặt đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối vốn, tình hình biến động của nguồn vốn. - Đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn trong quá trình kinh doanh và kết quả tài chính của hoạt động kinh doanh, tình hình thanh toán. - Tính toán và xác định mức độ có thể lượng hoá của các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những biện pháp có hiệu quả để khắc phục những yếu kém và khai thác triệt để những năng lực tiềm tàng của doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.2.2. Vai trò của việc phân tích năng lực tài chính của doanh nghiệp. Phân tích năng lực tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp.[24] 8 Mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích năng lực tài chính là đánh giá rủi ro phá sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, đánh giá khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích năng lực tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Nói cách khác, phân tích năng lực tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính – một trong các hướng dự đoán doanh nghiệp. Phân tích năng lực tài chính có thể được ứng dụng theo nhiều hướng khác nhau: với mục đích tác nghiệp (chuẩn bị các quyết định nội bộ), với mục đích nghiên cứu, thông tin hoặc theo vị trí của nhà phân tích (trong doanh nghiệp hoặc ngoài doanh nghiệp). Phân tích năng lực tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng kể cả các cơ quan Nhà nước và người làm công, mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau. Vì vậy việc phân tích năng lực tài chính của doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng không những chỉ đối với bản thân doanh nghiệp mà cả các đối tượng có quyền lợi trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các doanh nghiệp đó.[23] Thứ nhất, đối với người quản lý doanh nghiệp: mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ đến hạn cũng bị buộc phải ngừng hoạt động. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà quản lư doanh nghiệp phải giải quyết ba vấn đề quan trọng sau đây : 9 Một là: Lựa chọn đầu tư vào loại hình sản xuất kinh doanh phù hợp. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp. Hai là: Nguồn vốn tài trợ: Để đầu tư vào các tài sản, doanh nghiệp phải có nguồn tài trợ, nghĩa là phải có tiền để đầu tư bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc vay nợ dài hạn, ngắn hạn. Vấn đề đặt ra ở đây là doanh nghiệp sẽ huy động nguồn tài trợ với cơ cấu như thế nào cho phù hợp và mang lại lợi nhuận cao nhất. Ba là: Quản lý hoạt động tài chính hàng ngày của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn liền với các dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Vì thế nhà quản lý doanh nghiệp cần phải đưa ra các quyết định hợp lý nhằm xử lý sự lệch pha của các dòng tiền. Trên cơ sở phân tích năng lực tài chính mà nội dung chủ yếu là phân tích khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lời, nhà quản lý tài chính có thể giải quyết được cả ba vấn đề đó. Nhờ vậy mà họ có thể đề ra được những định hướng đúng đắn của doanh nghiệp trong tương lai. Thứ hai, đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm hàng đầu của họ là thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của các doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp cổ phần, các cổ đông là người đã bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp và họ có thể phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan tới việc giảm giá cổ phiếu trên thị trường, dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. Chính vì vậy, quyết định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro và doanh lợi đạt được. Vì thế, mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông là khả năng tăng trưởng, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Trước hết họ quan tâm tới lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ. Trên cơ sở phân tích các thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh hàng năm, các nhà đầu tư sẽ đánh giá được khả năng sinh lợi và triển vọng phát 10 triển của doanh nghiệp; từ đó đưa ra những quyết định phù hợp. Các nhà đầu tư sẽ chỉ chấp thuận đầu tư vào một dự án nếu ít nhất có một điều kiện là giá trị hiện tại ròng của nó dương. Khi đó lượng tiền của dự án tạo ra sẽ lớn hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ và cung cấp một mức lãi suất yêu cầu cho nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại sự giàu có cho những người sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính sách phân phối cổ tức và cơ cấu nguồn tài trợ của doanh nghiệp cũng là vấn đề được các nhà đầu tư hết sức coi trọng vì nó trực tiếp tác động đến thu nhập của họ. Một nguồn tài trợ với tỷ trọng nợ và vốn chủ sở hữu hợp lý sẽ tạo đòn bẩy tài chính tích cực vừa giúp doanh nghiệp tăng vốn đầu tư vừa làm tăng giá cổ phiếu và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Hơn nữa các cổ đông chỉ chấp nhận đầu tư mở rộng quy mô doanh nghiệp khi quyền lợi của họ ít nhất không bị ảnh hưởng. Bởi vậy, các yếu tố như tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ có thể dùng để trả lợi tức cổ phần, mức chia lãi trên một cổ phiếu năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp cũng như hiệu quả của việc tái đầu tư luôn được các nhà đầu tư xem xét trước tiên khi thực hiện phân tích tài chính. Thứ ba, đối với các chủ nợ của doanh nghiệp là các ngân hàng hoặc các nhà cung cấp tín dụng khi phân tích năng lực tài chính lại quan tâm đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp được xem xét trên hai khía cạnh là ngắn hạn và dài hạn. Nếu là những khoản cho vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp, nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp đối với các món nợ khi đến hạn trả. Nếu là những khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn
File đính kèm:
- de_tai_bien_phap_nang_cao_nang_luc_tai_chinh_doi_voi_cac_doa.pdf