Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán lớp 4

Đúng vậy, thực hiện lời Bác dạy: Giáo dục học sinh phát triển toàn diện ngay từ cấp Tiểu học làm nền tảng cho những lớp học, cấp học sau này chính là nhiệm vụ của giáo viên, nhà trường bậc Tiểu học. Các em học sinh, những mầm non hôm nay là chủ nhân của thế kỷ XXI- những con người thông minh, dí dỏm, hoạt bát, có ánh sáng của trí tuệ, có tâm hồn trong sáng, lành mạnh. Con người của văn hóa thời đại tiên tiến văn minh. Vậy, để hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học, ngoài việc nắm vững kiến thức, khắc sâu nội dung môn học mà mình giảng dạy, người giáo viên phải có những năng lực sư phạm nhất định. Một trong những năng lực đó là : “Năng lực tổ chức và điều khiển quá trình học tập cho học sinh.”

Để đạt được mục tiêu bài dạy, khi tiến hành dạy bài mới, giáo viên phải thực hiện các hoạt động gồm:

1) Giới thiệu bài (cách bắt đầu bài học)

2)Hướng dẫn tìm hiểu nội dung bài; tổ chức cho học sinh rèn luyện các kỹ năng tương ứng qua việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy học qua việc tổ chức hình thức dạy học

 3) Kết thúc bài học (củng cố bài)

 Kết quả học tập của học sinh đạt được ở mức độ nào phụ thuộc rất lớn vào việc hướng dẫn học sinh học tập trên lớp của giáo viên. Vậy giáo viên phải làm gì? Làm như thế nào để tổ chức và điều khiển cả một quá trình học tập trong một tiết học của học sinh đạt kết quả cao, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, giúp các em học tập một cách tự giác, nhẹ nhàng mà có hiệu quả. Thực hiện điều này, với chương trình thay sách giáo khoa mới ở cấp Tiểu học. Tôi nghiên cứu, tìm tòi và rút ra một số biện pháp trong việc tổ chức và điều khiển hoạt động của học sinh lớp 4 trong một tiết học.

 

doc21 trang | Chia sẻ: giaoanmamnon | Lượt xem: 6717 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán lớp 4, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phßng gi¸o dôc&®µo t¹o mü ®øc
Tr­êng tiÓu häc §èc TÝn
®Ò tµi
 S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 
Tªn ®Ò tµi:
Mét sè biÖn ph¸p NHẰM NÂNG CAO
 CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN TOÁN LỚP 4
Ng­êi thùc hiÖn: Bïi ThÞ TuyÕt Nga
	§¬n vÞ: Tr­êng tiÓu häc §èc TÝn- Mü §øc- Hµ Néi
	§Ò tµi thuéc lÜnh vùc: M«n To¸n
 N¨m häc: 2010- 2011
Phòng GD& ĐT Mỹ Đức CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨAVIỆT NAM
Trường TH §èc TÝn Độc lập -Tự do- Hạnh phúc
 ****************
ĐỀ TÀI
s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
I- SƠ YẾU LÝ LỊCH
 Hä vµ tªn: Bïi ThÞ TuyÕt Nga
Ngµy, th¸ng, n¨m sinh: 1966
N¨m vµo ngµnh : 1989
Chøc vô: Gi¸o viªn
§¬n vÞ c«ng t¸c: Trường Tiểu học §èc TÝn - Mü §øc - Hµ Néi
Tr×nh ®é chuyªn m«n: Đại học
HÖ ®µo t¹o: Từ xa
Bé m«n gi¶ng d¹y: Chủ nhiệm lớp 4A
Tr×nh ®é chÝnh trÞ : 
Khen thưởng: Gi¸o viªn giái cÊp tr­êng
II- TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN TOÁN LỚP4
NĂM HỌC: 2010-2011
A. LÝ DO CHỌN ĐÊ TÀI
 Lời Bác dạy:
“ Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
Đúng vậy, thực hiện lời Bác dạy: Giáo dục học sinh phát triển toàn diện ngay từ cấp Tiểu học làm nền tảng cho những lớp học, cấp học sau này chính là nhiệm vụ của giáo viên, nhà trường bậc Tiểu học. Các em học sinh, những mầm non hôm nay là chủ nhân của thế kỷ XXI- những con người thông minh, dí dỏm, hoạt bát, có ánh sáng của trí tuệ, có tâm hồn trong sáng, lành mạnh. Con người của văn hóa thời đại tiên tiến văn minh. Vậy, để hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học, ngoài việc nắm vững kiến thức, khắc sâu nội dung môn học mà mình giảng dạy, người giáo viên phải có những năng lực sư phạm nhất định. Một trong những năng lực đó là : “Năng lực tổ chức và điều khiển quá trình học tập cho học sinh.”
Để đạt được mục tiêu bài dạy, khi tiến hành dạy bài mới, giáo viên phải thực hiện các hoạt động gồm:
Giới thiệu bài (cách bắt đầu bài học)
2)Hướng dẫn tìm hiểu nội dung bài; tổ chức cho học sinh rèn luyện các kỹ năng tương ứng qua việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy học qua việc tổ chức hình thức dạy học
 3) Kết thúc bài học (củng cố bài)
 Kết quả học tập của học sinh đạt được ở mức độ nào phụ thuộc rất lớn vào việc hướng dẫn học sinh học tập trên lớp của giáo viên. Vậy giáo viên phải làm gì? Làm như thế nào để tổ chức và điều khiển cả một quá trình học tập trong một tiết học của học sinh đạt kết quả cao, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, giúp các em học tập một cách tự giác, nhẹ nhàng mà có hiệu quả. Thực hiện điều này, với chương trình thay sách giáo khoa mới ở cấp Tiểu học. Tôi nghiên cứu, tìm tòi và rút ra một số biện pháp trong việc tổ chức và điều khiển hoạt động của học sinh lớp 4 trong một tiết học. 
B. NỘI DUNG
I. KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG ĐẦU NĂM:
 1/Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 4A Trường tiểu học §èc TÝn.
 2/ Thời gian khảo sát: Ngày 16 tháng 9 năm 2010.
 3/ Cách tiến hành: Ra đề kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm.
 4/ Kết quả:
Lớp
Sĩ số
G
K
TB
Y
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
4A
20
3
15
6
30
10
50,0
1
5
 5/ Nguyên nhân:
 Từ kết quả trên so với môn Toán mà bản thân các em đạt được ở lớp 1,2,3. Quả thật, đây là điều đáng lo ngại. Sau một thời gian tìm hiểu, tôi phát hiện ra những nguyên nhân cơ bản sau:
 -Việc tiếp thu nội dung, kiến thức bài học của học sinh còn hạn chế, nhanh quên.
 -Việc lựa chọn và sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học của giáo viên chưa được hợp lý.
 -Đồ dùng dạy học để phục vụ minh họa còn ít, chưa phong phú. Giáo viên lựa chọn và sử dụng còn lúng túng, khai thác chưa khoa học.
 - Cách đặt câu hỏi, nhận xét câu trả lời của học sinh còn dài dòng.
 -Những bài mà nội dung, kiến thức cần ghi nhớ không có trong sách giáo khoa nên giáo viên tự soạn còn chưa chuẩn, sát, chưa tập trung vào mục tiêu chính.
 Những nguyên nhân trên liên quan đến việc giáo viên tổ chức và hướng dẫn học sinh học tập trong một tiết học. Vậy, người giáo viên tổ chức và hướng dẫn học sinh học tập trong một tiết học thật tốt thì sẽ gây hứng thú, yêu thích học tập cho học sinh. Khi đã hứng thú, say mê học tập rồi thì kết quả sẽ khả quan hơn, cao hơn.
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
 Từ tình hình thực tế ở khối lớp 4 nói chung, lớp 4A nói riêng, với những nguyên nhân nêu trên. Nhiệm vụ đặt ra cho bản thân tôi là: Làm thế nào để học sinh học tập có hiệu quả hơn? Từ đó tôi áp dụng 3 biện pháp để thực hiện như sau:
BIỆN PHÁP 1:GIỚI THIỆU BÀI
 Giới thiệu bài là khâu quan trọng trong tiến trình dạy học. Việc giới thiêu bài một cách hấp dẫn sẽ thu hút sự chú ý của học sinh, tạo hứng thú học tập và khêu gợi sự nỗ lực ở các em trong việc suy nghĩ, tìm tòi khái niệm. Như các môn học khác, môn Toán cũng có nhiều cách để giới thiệu bài học. Giáo viên lựa chọn biện pháp và hình thức dẫn dắt học sinh vào bài học mới sao cho nhẹ nhàng, hấp dẫn nhưng không cầu kì, kéo dài thời gian: gợi mở bằng tranh ảnh, bằng vật thật; cho học sinhthực hiện một ví dụ; diễn giải bằng lời hoặc bằng cách nêu tình huống có vấn đề sẽ lôi cuốn các em vào bài giảng một cách thoải mái.
 Ví dụ 1: Ví dụ về giới thiệu bằng cách cho học sinh làm ví dụ:
 Khi dạy bài “ Thương có chữ số 0”- Toán 4
 -Giáo viên nêu: 9450: 35=?
 -Học sinh thực hiện phép chia vào bảng con (chia như chia cho số có 2 chữ số) sau đó nhận xét về lượt chia cuối cùng của số bị chia (là 0) và thương( có 0 ở tận cùng: 270).
 -Giáo viên nhấn mạnh về thương của phép chia này và giới thiệu bài. Cách giới thiệu này phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Học sinh học tập tự giác mà có hiệu quả.
 Ví dụ 2: Ví dụ về giới thiệu bằng cách nêu tình huống có vấn đề:
 Khi dạy bài “Phân số và phép chia số tự nhiên”-Toán 4.
 - Giáo viên nêu tình huống: Có 3 cái bánh, chia đều cho 4 bạn. Vậy em có những cách chia nào?
 Ví dụ 3: Ví dụ về giới thiệu bằng cách nêu yêu cầu.
 Khi dạy bài “So sánh các số có nhiều chữ số”- Toán 4.
 - Giáo viên ghi bảng: 99578100000 rồi yêu cầu học sinh điền dấu thích hợp váo chỗ trống và giải thích.
 Ví dụ 4: Ví dụ về giới thiệu bằng cách bắt đầu bài học một cách trực tiếp bằng một câu hỏi.
 Khi dạy bài: “Viết số tự nhiên trong hệ thập phân”- Toán 4.
 - Giáo viên nêu câu hỏi:
Khi viết số, tự nhiên ở mỗi hàng có thể viết được mấy chữ số?
Cứ mười đơn vị ở một hàng hợp thành mấy đơn vị ở hàng trên tiếp liền nó?
 -Học sinh trả lời rồi giáo viên dẫn dắt vào bài học.
 Ví dụ 5: Ví dụ về giới thiệu bằng tranh ảnh hoặc vật thật.
 Khi dạy bài “Yến, tạ, tấn”- Toán 4.
 - Giáo viên chuẩn bị cân đồng hồ cân được 100 kg.
 - Học sinh lần lượt cân xem mình nặng bao nhiêu( một số học sinh đại diện cân)
 Từ đơn vị ki-lô- gam giáo viên giới thiệu sang đơn vị yến
 Như vậy, việc giới thiệu bài học tốt rất có ý nghĩa trong tiến trình tổ chức và kết quả giờ dạy Toán 4.
BIỆN PHÁP 2:TÌM HIỂU NỘI DUNG BÀI DẠY
Để tìm hiểu nội dung bài học đạt kết quả cao. Trong tiết học Toán người giáo viên phải đảm bảo được các nội dung sau:
 - Biết lựa chọn phương pháp dạy học.
 - Biết cách đặt câu hỏi, cách nhận xét câu trả lời của học sinh.
 - Thông báo nội dung dạy học.
 - Tổ chức dạy học theo nhóm.
 - Lựa chọn và sử dụng đồ dùng dạy học.
 - Tổ chức trò chơi trong tiết dạy học Toán.
 - Đánh giá, ghi điểm.
 1)Việc lựa chọn phương pháp dạy học.
 Khi tiến hành dạy học, người giáo viên có năng lực tổ chức và điều khiển quá trình học tập của học sinh là người biết lựa chọn và sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học một cách hợp lý. Trước sự thay đổi về nội dung dạy học, bám sát mức độ cần đạt được về nội dung, kiến thức chứa đựng bài học.
 Ví dụ: Khi dạy bài “Giây, thế kỷ”- Toán 4. Giáo viên sử dụng phương pháp luyện tập, thực hành là chủ yếu, kết hợp với các phương pháp khác (đàm thoại, quan sát, hướng dẫn, giảng giải) để hiểu được mối quan hệ giữa giờ và phút, phút và giây, giữa thế kỷ và năm. Từ đó rút ra kết luận: Dựa vào các đơn vị đo thời gian con người tính được khoảng thời gian từ trước cho đến nay.
Tuy nhiên, việc lựa chọn phương pháp cần phải căn cứ vào lứa tuổi của học sinh, đặc thù của môn học, tính chất của từng bài và điều kiện về cơ sở vật chất và khả năng hướng dẫn của giáo viên.
Đối với Toán 4, tôi sử dụng phương pháp dạy học chủ yếu là:
 a) Phương pháp dạy học bài mới:
 Khi dạy bài mới tôi hướng dẫn học sinh tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề của bài học rồi giúp học sinh sử dụng kinh nghiệm của bản thân hoặc của bạn cùng nhóm để tìm mối quan hệ của vấn đề đó với các kiến thức đã biết. Từ đó tự tìm cách giải quyết.
 Ví dụ: Khi dạy bài “So sánh hai phân số khác mẫu số”- Toán 4.
 - Giáo viên nêu: Trong hai phân số và phân số nào lớn hơn?
 - Học sinh nhận xét đặc điểm của và để nhận ra đó là hai phân số khác mẫu số cần phải so sánh - Vấn đề cần giải quyết.
 Để giải quyết tôi cho học sinh trao đổi theo nhóm, có thể theo hai phương án:
 Phương án 1: Lấy hai băng giấy như nhau. Chia băng giấy thứ nhất thành 3 phần bằng nhau, lấy hai phần( tức băng giấy). Chai băng giấy thứ hai thành 4 phần bằng nhau, lấy 3 phần ( tức băng giấy). 
 So sánh độ dài của hai phần lấy đi của hai băng giấy.
 Dựa vào hai băng giấy thực ta thấy băng giấy dài hơn băng giấy nên > 
 Phương án 2: Quy đồng mẫu số hai phân số2/3 và 3/4(học sinh đã học quy đồng)
 = = ; = = .
 So sánh: Vì > nên > .
 Không những hướng dẫn học sinh tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tôi còn tạo điều kiện cho học sinh củng cố và tập vận dụng kiến thức mới học ngay sau khi học bài mới để học sinh bước đầu tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Sau phần bài học học sinh được củng cố kiến thức mới học qua thực hành và tập vận dụng kiến thức mới học để giải quyết vấn đề trong học tập hoặc trong cuộc sống.
 Ví dụ : Sau khi học bài “So sánh hai phân số khác mẫu số”- Toán 4. Học sinh đã thực hành làm các bài tập. Tôi cho các em làm bài toán đố vui: Lan và Hoa cùng quét lớp. Lan quét được lớp học, Hoa quét được lớp học. Vậy bạn nào quét được nhiều hơn?
 Để tìm kết quả, học sinh phải phát hiện rồi tự giải quyết vấn đề của bài học là: “ so sánh hai phân số và ” vấn đề này nêu gián tiếp dưới dạng xem ai quét nhiều hơn?
b) Phương pháp dạy học các bài luyện tập, luyện tập chung, ôn tập thực hành.
 - Với các dạng bài này tôi giúp học sinh nhận ra các kiến thức đã học hoặc một số kiến thức mới trong nội dung các bài tập đa dạng và phong phú.
Ví dụ: Khi học sinh thực hành tính 2457 x 306. Nếu học sinh quên cách thực hiện, tôi nêu câu hỏi để học sinh nhớ lại đặc điểm 
của phép nhân dạng: nhân với số có ba chữ số, thừa số thứ hai có hàng chục là 0. Khi đặt tính không viết tích riêng thứ hai, tích riêng thứ ba viết lùi sang trái hai chữ số so với tích riêng thứ nhất. 
 - Giúp học sinh tự luyện tập, thực hành theo khả năng của từng học sinh. Ở phương pháp này tôi quan tâm giúp học sinh làm bài đúng, trình bày gọn, rõ ràng và cố gắng tìm được cách giải hợp lí.
 - Tạo ra sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh. Thông qua việc giúp đỡ bạn, bản thân các em càng nắm chắc, hiểu sâu kiến thức của bài học, càng có điều kiện hoàn thiện các năng lực của bản thân.
 - Tập cho học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá kết quả luyện tập, thực hành; có thói quen tìm nhiều phương án và lựa chọn phương án hợp lí nhất để giải quyết vấn đề của bài tập, không nên thỏa mãn với các kết quả đã đạt được.
 Ví dụ: Khi giải bài toán:
 Thương của phép chia 67200: 80 là số có mấy chữ số?
A. 5chữ số B. 4chữ số C. 3chữ số D. 2chữ số
 Học sinh chỉ khoanh vào C là đủ và đúng. Khi chữa bài giáo viên mới cho học sinh thảo luận, trao đổi ý kiến về cách làm.
 Đối với dạy số học trong Toán 4 phương pháp chủ yếu đối với các bài bổ sung, hoàn thiện, tổng kết về số tự nhiên. Tôi sử dụng phương pháp tổ chức hướng dẫn học sinh.
 Về phân số và các phép tính liên quan tôi sử dụng phương pháp hình thành khái niệm ban đầu.
 Ví dụ: Khi dạy bài: “Phép cộng phân số” (tiếp theo)- Toán 4.
 Cho học sinh nêu ví dụ rồi tôi ghi bảng + sau đó yêu cầu học sinh thực hiện. Học sinh sẽ lúng túng. Lúc này tôi hướng dẫn cho học sinh nhận ra mẫu số của hai phân số này khác nhau, để cộng thì cần phải quy đồng. Đến đây học sinh có thể thực hiện dễ dàng theo trình tự: Quy đồng mẫu số rồi cộng hai phân số.
 Đối với các bài toán có lời văn tôi để học sinh cố gắng tự tìm ra phương pháp giải bài toán với các bước:
 Bước 1: Phân tích đề toán, tóm tắt đề.
 Bước 2: Phân tích các mối quan hệ giữa các “ dữ kiện” đã cho với “kết luận” để tìm ra cách giải bài toán.
 Bước 3: Trình bày bài giải bài toán đầy đủ, rõ ràng.
 Để tránh nhàm chán khi giải bài toán có lời văn tôi thay đổi phương pháp cho học sinh đóng vai người bán hàng để giải toán.
 Ví dụ: Cô cần may 5 cái áo, mỗi cái áo may hết 1m 2dm. Hãy bán số vải cô cần để may số áo đó. Cô đưa 3 tờ giấy bạc mỗi tờ là 50000 đồng. Tính và trả lại số tiền dư (biết rằng1m vải giá 20000đồng) - Dành cho học sinh khá, giỏi
 Hoặc cho học sinh đóng vai bác nông dân.
 Ví dụ: Ba bác nông dân cấy lúa trên một thửa ruộng hình chữ nhật có chiều dài 54m, chiều rộng kém chiều dài 18m. Hỏi trung bình một bác nông dân cấy được bao nhiêu mét vuông ruộng? - Dành cho học sinh trung bình, khá.
 Vậy: Để tổ chức cho học sinh học tập trong một tiết Toán thật tốt, giáo viên cần phải xác định rõ mục tiêu, đối tượng dạy học để từ đó lựa chọn phượng pháp dạy học phù hợp nhằm đạt mục tiêu đó.
 2)Cách đặt câu hỏi, nhận xét câu trả lời của học sinh.
 a/ Trong quá trình dạy học, giáo viên thường đặt nhiều câu hỏi cho học sinh. Đó là những câu hỏi mà giáo viên không phải để biết mà là để thực hiện việc dạy học của mình. Mục đích của việc đặt câu hỏi này là gây hứng thú, gợi trí tò mò khoa học của học sinh để tóm tắt những điểm chính hoặc để đánh giá sự tiến bộ của học sinh. Vì vậy, mặc dù hằng ngày giáo viên đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi nhưng không phải ai cũng nắm được kĩ thuật và có nghệ thuật đặt câu hỏi.
 Người giáo viên có năng lực tổ chức, điều khiển quá trình học tập của học sinh trong suốt cả một tiết học bao giờ cũng đưa ra những câu hỏi liên quan đến nội dung bài học với nhiều loại câu hỏi khác nhau. Đó là những câu hỏi về hiện tượng, sự kiện, câu hỏi đòi hỏi sự nhớ lại, đòi hỏi mức độ nhận thức cao hơn; giải quyết vấn đề có tính chất toán họcvà biết cách sắp xếp chúng theo thứ tự từ dễ đến khó. Sử dụng câu hỏi trong dạy học toán được vận dụng linh hoạt vào từng phần của bài học cụ thể và phải phù hợp với nội dung kiến thức môn Toán trong bài học đó.
 Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh giải bài toán: Một mảnh đất hình chữ nhật có chu vi bằng 240m, chiều rộng bằng chiều dài. Tính diện tích mảnh vườn đó?
Tôi dùng hệ thống câu hỏi như sau:
Câu hỏi tìm dữ kiện:
-Bài toán cho ta biết gì?
-Bài toán yêu cầu ta phải làm gì ?
Câu hỏi đòi hỏi sự nhớ lại :
-Muốn tính diện tích hình chữ nhật ta làm như thế nào ?
Câu hỏi đòi hỏi suy luận :
-Muốn tính chiều rộng hoặc chiều dài của mảnh vườn ta làm cách nào ?
 Khi đặt câu hỏi tôi khuyến khích học sinh trả lời và dành thời gian cho học sinh thảo luận. Những câu hỏi tôi đặt ra cho học sinh là những câu hỏi có nội dung rõ ràng, dễ hiểu, chính xác,phù hợp với trình độ học sinh, liên quan đén nội dung bài học. Những câu hỏi ở mức độ khác nhau như :
Câu hỏi đòi hỏi sự nhớ lại :
-Nêu những đặc điểm giống nhau của hình chữ nhật và hình bình hành ?
Câu hỏi yêu cầu so sánh :
-Viết các phân số; ;; ; theo thứ tự từ bé đến lớn?
Câu hỏi yêu cầu học sinh tìm hiểu nguyên nhân:
 -Viết một phân số lớn hơn 1, một phân số bằng 1, giải thích vì sao?
Câu hỏi yêu cầu học sinh hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức:
 -Tìm 3 số tự nhiên khác nhau, biết số trung bình cộng của ba số là 2.
Câu hỏi yêu cầu vận dụng kiến thức đã học:
 -Để tính nhanh bài toán sau: 24 x 46 + 38 x 41+ 46 x 48 + 5 x 38. Em đã sử dụng tính chất gì của phép tính?
 b/ Khi nhận xét câu trả lời của học sinh tôi không nhận xét những câu trả lời của học sinh phát biểu mà không được chỉ định mà xác định một cách rõ ràng những câu trả lời đúng để tất cả học sinh đều biết. Có thể xác nhận bằng điệu bộ, cử chỉ mà không cần dùng ngôn ngữ nói. Khi học sinh trả lời chưa đúng, cần uốn nắn chỗ sai một cách cặn kẽ hoặc hướng dẫn học sinh tìm ra chỗ chưa đúng. Khi học sinh trả lời đúng không nên gọi nhiều học sinh khác nhận xét câu trả lời của bạn.
 3)Thông báo nội dung học tập.
 Trong khi tổ chức và hướng dẫn học sinh học tâp, giáo viên sử dụng nhiều dạng ngôn ngữ khác nhau: ngôn ngữ nói; ngôn ngữ viết; ngôn ngữ “ẩn”Ngôn ngữ tự nhiên được dùng để phát biểu vấn đề, diễn đạt suy luận
( khi cần thiết), bằng lời nói hay chữ viết. Đặc biệt ở tiểu học, khái niệm toán học có thể diễn đạt bằng nhiều cách.
 Ví dụ: Khái niệm mét vuông có thể diễn đạt:
 - Bằng kí hiệu: “m2”.
 - Bằng chữ viết: “ mét vuông”.
 - Bằng kí hiệu âm thanh: “đọc: mét vuông”
 Tuy nhiên ngôn ngữ nói có một vị trí đặc biệt quan trọng đối với việc dạy học của giáo viên. Cách dùng từ chính xác, cách phát âm rõ ràng, chuẩn xác tiếng phổ thông có tác dụng lớn trong việc thông báo nội dung học tập cho học sinh. Ngôn từ dễ nghe, dễ hiểu của giáo viên sẽ giúp học sinh dễ nhớ và nhớ lâu nhiều điều mà giáo viên truyền đạt.
 Việc thông báo nội dung học tập cho học sinh của giáo viên được tiến hành bằng nhiều hình thức:
 - Ghi lên bảng những nội dung học tập chính.
 - Giảng giải một vấn đề phức tạp.
 - Nhấn mạnh những điểm quan trọng.
 - Đưa ra những ví dụ để nhận xét.
 - Giải thích, hướng dẫn học sinh từng bước lĩnh hội nội dung cần thông báo.
 - Bổ sung, sửa đổi những câu trả lời của học sinh
 Trong các hình thức thông báo trên, ghi bảng là hình thức thể hiện rõ trình độ hiểu biết và việc làm khoa học của giáo viên. Những gì mà giáo viên ghi lên bảng thì đó là nội dung học tập chính mà học sinh cần lĩnh hội và cần được khắc sâu.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Thương có chữ số 0” tôi ghi bảng như:
Thứngày.tháng . năm 
Toán:
Thương có chữ số 0
a) Thương có chữ số 0 ở tận cùng.
9450 : 35 = ?
9450 35
245 270
 000
9450 : 35 = 270
b)Thương có chữ số 0 xen giữa.
2448 : 24 = ?
2448 24
0048 102
 00
2448 : 24 = 102
 * L ưu ý: VD(b ) 
 Mỗi lần hạ một chữ số ở số bị chia xuống để chia mà nhỏ hơn số chia thì ghi 0 vào thương rồi hạ chữ số tiếp theo xuống để chia.
4)Tổ chức dạy học theo nhóm
 - Trong tiết học Toán việc tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm là rất cần thiết.Hoạt động nhóm trong tiết Toán giúp các em tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức mới, có tác dụng gợi mở học sinh sử dụng các kiến thức và kĩ năng về môn Toán mà các em đã được lĩnh hội và rèn luyện để diễn đạt những ý kiến của mình, tham gia một chuỗi các hoạt động học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên, được khuyến khích để trao đổi các kinh nghiệm và được tạo cơ hội làm việc hợp tác với nhau.
 Đặc điểm tâm lí của học sinh Tiểu học là ham hiểu biết, ưa hoạt động, giàu trí tưởng tượng cho nên khi dạy học tôi luôn gợi trí tò mò, tránh đơn điệu về hình thức hoạt động. Còn đặc điểm nhận thức của học sinh là đi từ tư duy cụ thể đến tư duy trừu tượng, cho nên khi tổ chức dạy học theo nhóm trong môn Toán tôi chia thành các nhóm từ 2 đến 6 học sinh: theo tổ, dãy, bàn, cặpTùy theo mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập.
 Ví dụ: -Tiết dạy về kiến thức mới tôi chia theo nhóm : Bàn.
 -Tiết dạy luyện tập tôi chia theo nhóm: 4 học sinh.
 -Tiết dạy thực hành tôi chia theo nhóm: Tổ.
 -Tiết dạy ôn tập tôi chia theo nhóm:2; 4 học sinh.
 Chia nhóm cũng có nhiều cách khác nhau. Trong tiết Toán tôi thường chia theo các cách:
 Cách 1: Các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ định( nhóm cùng trình độ, nhóm theo sở trường)
 Ví dụ: 
 - Nhóm chia ngẫu nhiên, nhiều trình độ: Cho học sinh đếm từ 1 đến 6 vòng quanh lớp. Các nhóm được thành lập bởi các em có cùng số hoặc lập một bộ từ 1 đến 6. Hoặc phát cho mỗi học sinh một tấm bìa có vẽ biểu tượng, học sinh tìm bạn có cùng biểu tượng hợp thành một nhóm.
 - Nhóm hình thành có chủ định:
Giáo viên lần lượt đọc tên học sinh vào từng nhóm.
Giáo viên chia nhóm cố định và đặt tên cho mỗi nhóm. Khi có lệnh của giáo viên, các em tự giác thành lập nhóm như nhóm tổ, dãy.
 - Chia nhóm tình bạn: Học sinh được phép chọn bạn lập thành một nhóm với số người do giáo viên định trước.
 Cách 2: Các nhóm hoạt động trong 

File đính kèm:

  • docMOT SO BIEN PHAP NHAM NANG CAO CHAT LUONG GIANGDAYMON TOAN LOP 4.doc
Giáo Án Liên Quan