Một số biện pháp phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ 3 – 4 tuổi ở lớp mẫu giáo bé trường mầm non Nậm Loỏng
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của loài người, là phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp xã hội. Ngôn ngữ bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết và là công cụ quan trọng nhất của sự trao đổi văn hoá giữa các dân tộc. Ngôn ngữ là tấm gương phản ánh văn hoá của mỗi dân tộc. Các dân tộc thiểu số của Việt Nam có ngôn ngữ riêng của dân tộc mình trong sinh hoạt cộng đồng của họ, đồng thời họ cũng sử dụng Tiếng Việt để giao tiếp với cộng đồng người Việt trên toàn quốc, đồng thời được cung cấp giáo dục, y tế, giải trí, thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng bằng chữ Quốc ngữ. Sự giao thoa văn hoá ngôn ngữ làm phong phú thêm cho nền văn hoá của người thiểu số, đồng thời cũng làm thay đổi cuộc sống, kinh tế và vị thế của cộng đồng các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt anh em. Có thể nói rằng “cộng đồng các dân tộc thiểu số ở nước ta thực sự là một cộng đồng song ngữ” - tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc và tiếng Việt của người Kinh.
Tiếng Việt còn gọi là tiếng phổ thông với tư cách là ngôn ngữ Quốc gia, là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và các cơ sở giáo dục từ mầm non đến đại học. Thực tế cho thấy chất lượng học tập của học sinh dân tộc thiểu số phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tiếng Việt của học sinh. Phần lớn trẻ dân tộc thiểu số khi tới trường, lớp mầm non đều chưa được sống trong môi trường tiếng Việt.
Việc quan trọng trong trường mầm non cần làm là giúp trẻ trước độ tuổi đi học phát triển tốt ngôn ngữ, phù hợp với từng lứa tuổi và sự phát triển chung của trẻ. V.I Lênin cho rằng: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người. Do đó, ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống hàng ngày, không có ngôn ngữ đứa trẻ không thể phát triển thành người một cách thực thụ. Muốn nói được, muốn giao tiếp được với mọi người xung quanh thì đứa trẻ phải được trải qua quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ trong môi trường nhất định
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: a. Khái quát về lý luận Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của loài người, là phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp xã hội. Ngôn ngữ bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết và là công cụ quan trọng nhất của sự trao đổi văn hoá giữa các dân tộc. Ngôn ngữ là tấm gương phản ánh văn hoá của mỗi dân tộc. Các dân tộc thiểu số của Việt Nam có ngôn ngữ riêng của dân tộc mình trong sinh hoạt cộng đồng của họ, đồng thời họ cũng sử dụng Tiếng Việt để giao tiếp với cộng đồng người Việt trên toàn quốc, đồng thời được cung cấp giáo dục, y tế, giải trí, thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng bằng chữ Quốc ngữ. Sự giao thoa văn hoá ngôn ngữ làm phong phú thêm cho nền văn hoá của người thiểu số, đồng thời cũng làm thay đổi cuộc sống, kinh tế và vị thế của cộng đồng các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt anh em. Có thể nói rằng “cộng đồng các dân tộc thiểu số ở nước ta thực sự là một cộng đồng song ngữ” - tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc và tiếng Việt của người Kinh. Tiếng Việt còn gọi là tiếng phổ thông với tư cách là ngôn ngữ Quốc gia, là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và các cơ sở giáo dục từ mầm non đến đại học. Thực tế cho thấy chất lượng học tập của học sinh dân tộc thiểu số phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tiếng Việt của học sinh. Phần lớn trẻ dân tộc thiểu số khi tới trường, lớp mầm non đều chưa được sống trong môi trường tiếng Việt. Việc quan trọng trong trường mầm non cần làm là giúp trẻ trước độ tuổi đi học phát triển tốt ngôn ngữ, phù hợp với từng lứa tuổi và sự phát triển chung của trẻ. V.I Lênin cho rằng: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người. Do đó, ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống hàng ngày, không có ngôn ngữ đứa trẻ không thể phát triển thành người một cách thực thụ. Muốn nói được, muốn giao tiếp được với mọi người xung quanh thì đứa trẻ phải được trải qua quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ trong môi trường nhất định Việc chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ khi bắt đầu tới trường, lớp là vô cùng quan trọng bởi ngôn ngữ có chức năng làm công cụ tư duy, công cụ biểu đạt tư tưởng, tình cảm ; công cụ giao tiếp giữa các thành viên trong xã hội. b. Khái quát về thực tiễn: Thực tế cho thấy đối với những trẻ thành thạo tiếng phổ thông việc giao tiếp và thu nhận tri thức và thực hiện những yêu cầu của giáo viên một cách rất dễ dàng song đối với trẻ dân tộc thiểu số đây là cả một vấn đề khó khăn và đòi hỏi nhà giáo dục cần phải có những biện pháp phù hợp. Đặc biệt ở trường mầm non Nậm Loỏng chúng tôi các cháu 100% là dân tộc Mông nghe và nói tiếng Việt rất kém mặc dù cô giáo có kèm cặp nhiệt tình đến mức nào chăng nữa thì trẻ vẫn nói bằng hai thứ tiếng, mà chủ yếu là tiếng mẹ đẻ, nhất là khi trẻ ra khỏi lớp học. Sở dĩ như vậy là do tiếng Việt không phải là một phương tiện sử dụng thường xuyên đối với học sinh dân tộc thiểu số. Ở đây học sinh chỉ dùng tiếng Việt giao tiếp với giáo viên khi cần thiết, còn ngoài ra trẻ vẫn thường xuyên sử dụng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình. Chính vì vậy dẫn đến chất lượng chăm sóc Giáo Dục trẻ không thể đạt được kết quả như mong muốn Thông qua các hội thi các cấp cho thấy trẻ dân tộc thiểu số trong nhà trường đạt kết quả rất thấp so với mặt bằng chung trong toàn Thành phố Lai Châu. Với nội dung chỉ chú trọng tăng cường tiếng việt cho trẻ 5 tuổi để chuẩn bị vào lớp 1 như hiện nay theo tôi là muộn và chưa đủ so với yêu cầu thực tế trong công tác giáo dục của nhà trường. Bởi trong quá trình học ở các lớp dưới trẻ chưa thành thạo tiếng việt nên việc nắm bắt kiến thức còn hạn chế, trẻ chưa hiểu hết những yêu cầu hay những cuộc trò chuyện của cô nên chưa phát huy hết tính tích cực, chủ động của trẻ. Trẻ nói không rõ ràng về ngôn ngữ và kĩ năng diễn đạt ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ còn khó khăn.. Thực tế tại nhà trường trẻ từ 0 – 2 tuổi đi học đạt khoảng 16 - 20%, còn lại 3 tuổi trẻ ra lớp đạt 100%. Bắt đầu đi học cũng là lúc trẻ bắt đầu học ngôn ngữ thứ hai. Loại ngôn ngữ giúp trẻ giao tiếp, tiếp nhận tri thức, bày tỏ những quan điểm của riêng mình, song song cùng học ngôn ngữ là trẻ học tri thức, vì vậy có phát triển ngôn ngữ tiếng Việt mạch lạc càng sớm thì trẻ mới tiếp nhận tri thức một cách tốt nhất và đảm bảo nhất. Việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu cấp thiết đặt cho giáo dục nhà trường nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện sứng tầm với quy mô phát triển của thành phố Lai Châu. Tôi nhận thấy cần có những biện pháp bổ xung, tăng cường tiếng Việt cho trẻ ngay từ độ 3 - 4 tuổi. Với lý do trên tôi chọn đề tài "Một số biện pháp phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ 3 – 4 tuổi ở lớp mẫu giáo bé trường mầm non Nậm Loỏng". Đây cũng là một sáng kiến tôi đưa ra còn mới với nhà trường song tôi mong rằng sẽ được áp dụng trong thời gian tới, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. 2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu. Phạm vi: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 - 4 tuổi lớp mẫu giáo bé trung tâm -Trường Mầm non Nậm Loỏng Đối tượng nghiên cứu “Một số biện pháp phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ 3 – 4 tuổi ở lớp mẫu giáo bé trường mầm non Nậm Loỏng". 3.Mục đích nghiên cứu Tôi quyết định lựa chọn đề tài này với mục đích tìm hiểu thực trạng của việc phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ 3 – 4 tuổi và áp dụng các giải pháp để nâng cao vốn tiếng Việt cho trẻ 3 – 4 tuổi dân tộc thiểu số tại nhà trường. Qua đó vận dụng những kiến thức có sẵn và qua học hỏi để nghiên cứu và áp dụng các giải pháp vào chăm sóc giáo dục phù hợp giúp trẻ phát triển một cách hài hoà và bắt kịp với chất lượng giáo dục chung trong toàn Thành phố. Vận dụng những kiến thức kinh nghiệm đưa ra một số giải pháp giúp trẻ được phát triển ngôn ngữ tiếng Việt một cách đầy đủ và mạch lạc nhất ngay khi trẻ bước chân vào trường Mầm non và trẻ tự tin bày tỏ cảm súc, suy nghĩ của mình với những người xunh quanh một cách tốt nhất. Tôi mong rằng trẻ thành thạo tiếng Việt sớm hơn và từ đó trẻ tiếp nhận tri thức một cách dễ ràng và đầy đủ nhất và đó sẽ là một lý do để nhà trường nâng cao chất lượng giáo dục đây cũng là một nền móng tốt cho trẻ phát triển một cách toàn diện. 4. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm. Đây là sáng kiến kinh nghiệm được thực hiện và áp dụng lần đầu. Bằng một số biện pháp tăng cường tiếng việt cho trẻ 3 - 4 tuổi dân tộc thiểu số tai trường Mầm non Nậm Loỏng như: Cung cấp tiếng việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi, trẻ học tiếng Việt đảm bảo theo một trình tự nhất định từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Có ứng dụng công nghệ thông tin vào các bài dạy, vào các hoạt động ngoài giờ nhằm phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ. Hình thành sự tự tin cho trẻ vì khi trẻ tự tin trẻ dễ dàng học hỏi, dễ dàng bày tỏ những suy nghĩ, chia sẻ hiểu biết của mình bằng tiếng việt với cô và bạn bè. Lựa nội dung giáo dục phù hợp với đối tượng với điều kiện thực tế của trẻ của nhà trường và lớp học. Nhằm nâng cao chất lượng ngôn ngữ trong giao tiếp, trong diễn đạt tiếng việt của trẻ một cách tốt nhất. Giúp trẻ tự tin, mạnh dạn thể hiện hiểu biết của mình bằng cách sử dụng ngôn ngữ tiếng việt một cách thành thạo sớm nhất. Chương 1 1.1. Cơ sở lý luận “Một số biện pháp phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ 3 – 4 tuổi ở lớp mẫu giáo bé trường mầm non Nậm Loỏng". Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, tồn tại và phát triển theo sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Là phương tiện nhận thức thế giới xung quanh, là cơ sở của mọi sự suy nghĩ, là công cụ của tư duy. Đối với trẻ em dân tộc ngôn ngữ thứ hai đóng một vai trò cũng đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy, hình thành và phát triển nhân cách; là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập, vui chơi Trẻ có nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh thông qua ngôn ngữ, lời nói của người lớn, trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng và hiểu những đặc điểm, tính chất, cấu tạo, công dụng... của chúng và trẻ học được từ tương ứng (từ và hình ảnh trực quan đi vào nhận thức của trẻ cùng một lúc). Ngôn ngữ giúp trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh. Từ ngữ giúp cho việc củng cố những biểu tượng đã được hình thành. 1.1 Các định nghĩa, khái niệm. a. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp. Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể hiểu được nhau, cùng nhau hành động vì những mục đich chung: lao động, đấu tranh, xây dựng và phát triển xã hội. Không có ngôn ngữ con người không thể giao tiếp vì vậy ngôn ngữ chính là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành một thành viên của xã hội loài người, là công cụ hữu hiệu để trẻ bày tỏ những nguyện vọng, suy nghĩ và đánh giá của bản thân về những hiện tượng xung quanh Ngôn ngữ là công cụ để phát triển tư duy, nhận thức. Ngôn ngữ chính là hiện thực của tư duy và tư duy của con người có thể hoạt động được cũng chính là nhờ có phương tiện ngôn ngữ. Tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu không có ngôn ngữ thì quá trình tư duy của con người không diễn ra được. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ học tập, vui chơi, những hoạt động chủ yếu ở trường mầm non. Giống như việc dạy trẻ tiếng mẹ đẻ, việc phát triển ngôn ngữ thứ hai cho trẻ ở trường mầm non là thực sự là mục tiêu “kép” giữa phát triển tri thức tư duy tiếng Việt và ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ. Trẻ biết sử dụng tiếng Việt đồng thời sử dụng nó như một công cụ để giao tiếp, vui chơi và học tập. Thông qua các hoạt động học tập, vui chơi và trò chuyện ở mọi lúc mọi nơi mà dần dần trẻ thành thạo và ngược lại mọi hoạt động ở trường cũng tạo cơ hội cho ngôn ngữ thứ hai của trẻ phát triển. Ngôn ngữ tiếng Việt là phương tiện để trẻ học tập. Có thể khẳng định rằng: Học tiếng mẹ đẻ là sự học tập quan trọng nhất, cần thiết nhất, bắt đầu sớm nhất và cần được quan tâm nhất. Song với trẻ dân tộc thiểu số tiếng mẹ đẻ không phải là ngôn ngữ chính để trẻ học tập, vui chơi và giao tiếp với xã hội. Do đó bắt buộc trẻ phải học ngôn ngữ thứ hai khi bước vào ngưỡng cửa trường mầm non với một hình thức giống với tiếng mẹ đẻ, nhưng với một môi trường hẹp hơn là lớp học, là cô giáo và các bạn. Trẻ học ngôn ngữ tiếng Việt song song với việc học tri thức và bước đầu trẻ phải tập làm chủ ngôn ngữ thứ 2 để đảm bảo làm chủ tri thức, tư duy của mình Ngôn ngữ có thể chuyển tải được tất cả các nội dung thông tin khác nhau mà người nói có nhu cầu ( từ việc bộc lộ cảm xúc, thái độ của người nói đến người nghe; đến những nhu cầu về trao đổi kinh nghiệm chinh phục thiên nhiên hoặc truyền bá tri thức. Mà trong đó ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ của người dân tộc thiểu số chỉ phục vụ được một phần nhỏ số người có nhu cầu trong cộng đồng. Chỉ có ngôn ngữ tiếng Việt mới giúp họ hoà chung vào sự phát triển của xã hội. Các văn bản chỉ đạo: Căn cứ công văn số: 947/SGDĐT-CNTT ngày 23/9/2013 của Sở Giáo dục và Đào tạo Lai Châu và công văn số: Số: 521/PGD&ĐT-TĐKTngày 02/10/2013 của Phòng Giáo dục và Đào tạo Thị xã Lai Châu về việc hướng dẫn công tác nghiên cứu khoa học và sáng kiến kinh nghiệm năm học 2013-2014; Căn cứ vào Kế hoạch chỉ đạo chuyên môn trường mầm non Nậm Loỏng về việc nghiên cứu thực trạng của nhà trường và đưa ra các giải pháp, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ từ 3 –4 tuổi trong nhà trường. Chương 2 Thực trạng của một số biện " Một số biện pháp phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ 3 – 4 tuổi ở lớp mẫu giáo bé trường mầm non Nậm Loỏng". 2.1 Vài nét về địa bàn thực hiện sáng kiến. Trường nằm trong Xã Nậm Loỏng là một xã đặc biệt khó khăn của Thành phố, trong đó dân tộc chiếm chủ yếu trên 90%. Tập quán sinh hoạt còn tương đối lạc hậu. Nhân dân sinh sống chủ yếu là nghề nông nghiệp. Là xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn thị xã nên thu nhập bình quân trên đầu người còn thấp. Hộ đói nghèo vẫn còn cao địa bàn cư trú nằm rải rác, đa số nhân dân trong xã chưa thông thạo tiếng phổ thông , cơ sở hạ tầng tại các thôn bản tuy đã được quan tâm đầu tư song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu sinh hoạt của người dân. Nhà trường có 4 điểm bản với 181 học sinh trong đó trẻ dân tộc thiểu số là 181 Tổng số cán bộ giáo viên: - Ban giám hiệu 2 đồng chí Giáo viên: 21 đồng chí Nhân viên: 10 đồng chí. *.Đặc điểm tình hình lớp học - Tổng số học sinh: 23 cháu - 100% học sinh là người dân tộc Mông - Trong đó Nam: 11 ; Nữ: 12 - Tổng số giáo viên: 2 cô - Trình độ chuyên môn: Đại học 1; Cao đẳng 1 -Lớp thực hiện theo chương trình giáo dục mầm non. - Lớp có tương đối đầy đủ các đồ dùng đồ chơi, thiết bị dạy học phục vụ cho công tác giáo dục Thực trạng của đề tài: * Thuận lợi: Bản thân là giáo viên có trình độ chuyên môn trên chuẩn với năng lực chuyên môn vững vàng, nhiệt tình yêu nghề mến trẻ. Có khả năng tiếp thu những kinh nghiệm và vận dụng vào giảng dạy một cách linh hoạt, có nhiều ý tưởng, luôn mong muốn có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường đó là một thuận lợi lớn trong việc thực hiện đề tài. Lớp học rộng rãi, thoáng mát đảm bảo cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ, lớp học có ti vi, đàn ocgan, nhà trường có máy trình chiếu có thể kết nối với máy tính xách tay, lớp được trang bị các tài liệu, sách truyện để làm tài liệu dạy. Bản thân đã bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Trẻ trong lớp có cùng độ tuổi, sĩ số học sinh đảm bảo phù hợp với điều kiện của lớp và nhà trường, tỉ lệ chuyên cần của trẻ cao. Trường được xây dựng ở gần khu dân cư thuận tiện cho việc đi học của học sinh Trường lớp khang trang, sạch sẽ có đầy đủ đồ dùng, trang thiết bị cho trẻ hoạt động trong lớp và ngoài trời. * Khó khăn: - 100% học sinh trong lớplà dân tộc Mông nên việc giao tiếp giữa cô và trẻ còn bất đồng về ngôn ngữ. - Có 60% trẻ mới bắt đầu ra lớp và cũng là lúc trẻ bắt đầu làm quen với ngôn ngữ tiếng Việt. - Nhiều phụ huynh chưa thành thạo tiếng phổ thông và chưa chú trọng vào việc dạy tiếng phổ thông cho trẻ tại gia đình. - Đồ dùng phục vụ cho hoạt động dạy ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ chưa phong phú đa dạng, chưa có sự đầu tư và chưa có sự sáng tạo. - Đối với trẻ mới ra lớp ngôn ngữ nói tiếng việt của trẻ còn hạn chế trẻ chậm chạm, nhút nhát, chưa tự tin. - Cô giáo còn hạn chế về tiếng Mông nên việc phối kết hợp giữa cô và trẻ còn chưa đạt hiệu quả cao. Kết quả khảo sát thực trạng trẻ đầu năm học 2013 – 2014: * Bảng1: Khảo sát ngôn ngữ tiếng việt của trẻ đầu năm học Nội dung Kết quả khảo sát Trẻ nói thành thạo tiếng Việt 0/23 = 0% Trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động học và trò chuyện cùng cô. 3/23 = 13% Trẻ nghe và hiểu một số yêu cầu của cô: Đứng lên, ngồi xuống, đi ra ngoài, vào lớp, đi vệ sinh,.. 6/23 = 26% Trẻ biết một số từ đơn giản trong giao tiếp diễn đạt những yêu cầu, mong muốn của bản thân như chào hỏi, mời cô và các bạn ăn cơm, xin đi vệ sinh, xin cô uống nước, chơi cùng các bạn.... 4/23 = 17,4 % Trẻ đọc thơ và kể chuyện một cách mạch lạc. 0/23 = 0% Trẻ tự tin thể hiện, chao đổi trò chuyện cùng cô hay người lạ 0/23 = 0% Bảng 2. Chất lượng Giáo dục đầu năm học Lĩnh vực phát triển Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng Tỉ lệ (%) Thể chất 23 0 0 5 21,7 10 43,5 8 34,8 Ngôn ngữ 23 0 0 3 13 5 21,7 15 65,2 Nhận thức 23 0 0 4 17,4 11 47,8 8 34,8 Thẩm mỹ 23 0 0 5 21,7 10 43,5 8 34.8 Tình cảm xã hội 23 1 4,3 6 26,1 7 30,4 9 39,1 2.3. Nguyên nhân Với đặc thù trường có 100% trẻ học là dân tộc thiểu số, 60% trẻ mới bắt đầu ra lớp trẻ bắt đầu học và làm quen với ngôn ngữ tiếng Việt. Vì Tiếng Việt không phải tiếng mẹ đẻ nên việc học tập và trao đổi trò chuyện với cô và bạn bè còn nhiều hạn chế. - Các tài liệu giáo dục chưa thật sự phù hợp với đối tượng, chưa có tài liệu dành riêng giáo viên dạy vùng Dân tộc. Trong khi đó giáo viên lại chưa được trang bị kiến thức về đối tượng học sinh. Đa số phụ huynh chưa thành thạo tiếng Việt, việc chao đổi trò chuyện với trẻ bằng tiếng phổ thông tại gia đình trẻ chưa có chú trọng. 40% trẻ trong lớp học qua lớp nhà trẻ song tỉ lệ chuyên cần chưa cao, giáo viên chưa chú trọng vào việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ. Chương 3: " Một số biện pháp phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ 3 – 5 tuổi ở lớp mẫu giáo bé trường mầm non Nậm Loỏng". Để khắc phục những khó khăn trên giáo tôi đã thực hiện như sau: - Nắm vững những đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ 3 – 5 tuổi. - Có các giải pháp hướng dẫn trẻ học tiếng Việt một cách linh hoạt, phù hợp với khả năng và điều kiện thực tế của nhà trường, phù hợp với địa phương và khả năng nhận thức của trẻ trong lớp. - Thường xuyên tham khảo tài liệu, sưu tầm các thông tin trên mạng intenet, dự giờ kiến tập đồng nghiệp, học hỏi kinh nghiệm. - Tuyên truyền cho các bậc phụ huynh cùng với giáo viên tích cực dạy tiếng phổ thông cho trẻ. Để giúp trẻ tăng khả năng nghe hiểu và thực hành tiếng Việt một cách tốt nhất tôi kiên trì, sáng tạo và gần gũi với trẻ. Bằng sự hiểu biết của mình tôi lựa chọn những nội dung những bài học và những hình thức, những hình ảnh đẹp hay những tình huống hẫp dẫn giúp trẻ học tiếng việt có hiệu quả vì vậy tôi đưa ra các biện pháp sau: 3.1 Biện pháp thực hiện *. Biện pháp1: Dạy trẻ học tiếng Việt theo trình tự nghe – hiểu – thực hành. + Trẻ học hiểu nghĩa của từ và câu trước khi nói chính xác từ và câu đó. Bước vào ngưỡng cửa trường mẫu giáo trẻ bắt đầu làm quen với ngôn ngữ thứ hai và đây cũng là thời kỳ đầu tiên trong quá trình trẻ học nói tiếng Việt, tiếp thu kiến thức bằng tiếng Việt. Mọi lời nói hướng dẫn, cách truyền đạt của cô đều thật khó đối với trẻ. Nửa đầu học kỳ 1, nhiệm vụ quan trọng nhất là phát triển khả năng nghe hiểu lời nói của cô. Với mục đích trẻ trẻ hiểu ghĩa của từ ngữ rồi trẻ thực hành tiếng Việt. Yêu cầu đối với giáo viên không cấm trẻ nói tiếng mẹ đẻ và cần tránh dạy trẻ nói mà không hiểu nghĩa. Ở đây tôi thường xuyên sử dụng đồ dùng trực quan, hành động với đồ vật, bằng ngôn ngữ hình thể để diễn đạt một cách cụ thể dễ hiểu nhất giúp trẻ một phần nắm bắt dễ dàng và hiểu một cách chính xác vấn đề. Ví dụ: Trẻ làm quen với tên gọi các bạn: đây là bạn Mai chi, đây là bạn Mai Trang cô dắt trẻ lên và giới thiệu cho các bạn nghe, lần lượt các bạn trong lớp. Cho trẻ làm quen với tên gọi và đồ dùng đồ chơi ở các góc trong lớp học: Đây là viên gạch, đây là quả táoKhi cô giới thiệu cho trẻ nghe cô hỏi lại để kiểm tra đối với các trẻ. Cô giới thiệu và làm mẫu một số hành động cụ thể : đứng lên, ngồi xuống, đi ra ngoài kết hợp sử dụng tiếng mẹ đẻ để giải thích nghĩa của từ và câu, nhất là những từ trừu tượng, khó hiểu. Tôi thường xuyên dùng những từ ngữ nhẹ nhàng để khen ngợi trẻ, nêu những điểm nổi bật làm trẻ thích thú và chăm chú nghe cô nói. Sử dụng đồ dùng cho trẻ tiếp cận theo nhóm đối tượng giúp trẻ dễ sâu chuỗi được vấn đề hơn: Vi dụ: Cho trẻ quan sát tranh các con vật cô hỏi “ Con gì đây” và “đây là con gì” đầu tiên trẻ chưa biết tôi hướng dẫn trả lời rồi cho trẻ bắt chước sau đó trẻ tự trả lời, và cứ như vậy trẻ sẽ tự hiểu đó là những con vật. Vì vậy khi cho trẻ tiếp súc đối tượng tôi thường đưa các đối tượng có cùng chủng loại: các loại quả, các đồ chơi... Tôi thường xuyên trao đổi với trẻ bằng cách chọn từ ngữ sao cho ngắn gọn, dễ hiểu kết hợp hướng dẫn giúp trẻ hiểu những vấn đề, nhiệm vụ gần gũi đối với trẻ: Ví dụ: Khi trẻ đến lớp cô nhắc “ Chào cô nào” và cô hướng dẫn cho trẻ thực hiện nói “ Cháu chào cô” và các khái niệm, các từ chỉ tên người, đồ vật ví dụ: Tên bạn, quần áo, bát đĩa, tên đồ dùng đồ chơi trong lớp, một số hoạt động hàng ngày trẻ phải thực hiện ví dụ: con hát nào, con hãy đọc thơ, con thực hiện cùng cô nào Tôi luôn chú ý phát rõ âm để trẻ dễ tiếp thu, dạy trẻ cần phải kèm tranh minh họa, vật thật đôi khi cần có cả sự giải thích, khi sử dụng từ ngữ cô lựa chọn cầu từ ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với trẻ. Chú ý cung cấp từ mới cho trẻ phải nhắc đi nhắc lại giúp trẻ nghe rõ và hiểu vấn đề một cách cụ thể. Tạo cho trẻ năng lực bắt chước kết hợp âm thanh, trẻ thường xuyên học nhắc lại những gì nghe được từ cô và các bạn, đây cũng là một trong những biện pháp trẻ dễ học dễ hiểu nhất: Ví dụ: Trong giờ học tôi đưa một bức tranh và hỏi trẻ cô c
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_tang_cuong_tieng_viet_cho_tre_dan_toc_thieu_so.doc