Phương pháp giới thiệu nghĩa của từ
Để hoà nhập chung với sự phát triển chung của thế giới nói chung,sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nhiều lĩnh vực khác nói riêng. Nắm bắt được tầm quan trọng đó Đảng và nhà nước ta đã có những chủ trương, kế hoạch cho sự phát triển giáo dục nói chung sự phát triển của bộ môn Tiếng Anh nói riêng trong các bậc đào tạo.
Hiện nay bộ môn tiếng Anh đã được đưa vào hệ thống đào tạo của nền giáo dục nước nhà. Đặc biệt bộ môn Tiếng Anh đã đưa vào giảng dạy trong chương trình giáo dục cấp tiểu học và đã phổ cập ở cấp cơ sở điều đó chứng tỏ Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến sự phát triển của bộ môn Tiếng Anh.
Một nhiệm vụ đặt ra cho các nhà ngôn ngữ học ứng dụng và các giáo viên ngôn ngữ khắc phục được sự dao động trong việc dạy ngoại ngữ , sự dao động đó thể hiện ở việc dạy, các giáo viên dạy ngoai ngữ bây giờ có thể lựa chọn những cách dạy hiệu quả nhất trong số những phương pháp hiện có. Điều này một mặt thể hiện lớn mạnh của việc dạy học ngoại ngữ nhưng mặt khác cũng làm cho nhiều giáo viên lúng túng, không biêt lựa chọn phương pháp nào , song theo tôi phương pháp tốt nhất là mỗi giáo viên phải tự mình thử nghiệm trên cơ sở những hiểu biết về lý thuyết và dạy học ngoại ngữ.
Đối với học sinh THCS là đối tượng ở giai đoạn đầu của chương trình học ngoại ngữ thì vấn đề trước tiên là học sinh phải tích luỹ được một số vốn từ vựng để có thể thực hành trong giao tiếp. Bởi vì từ vựng là những ngữ liệu cần thiết trong việc học ngoại ngữ. Nó có thể là một từ đơn lẻ hoặc từ ghép để biểu đạt một ý nghĩa duy nhất.
A. Đặt vấn đề I. Lời mở đầu: Để hoà nhập chung với sự phát triển chung của thế giới nói chung,sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nhiều lĩnh vực khác nói riêng. Nắm bắt được tầm quan trọng đó Đảng và nhà nước ta đã có những chủ trương, kế hoạch cho sự phát triển giáo dục nói chung sự phát triển của bộ môn Tiếng Anh nói riêng trong các bậc đào tạo. Hiện nay bộ môn tiếng Anh đã được đưa vào hệ thống đào tạo của nền giáo dục nước nhà. Đặc biệt bộ môn Tiếng Anh đã đưa vào giảng dạy trong chương trình giáo dục cấp tiểu học và đã phổ cập ở cấp cơ sở điều đó chứng tỏ Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến sự phát triển của bộ môn Tiếng Anh. Một nhiệm vụ đặt ra cho các nhà ngôn ngữ học ứng dụng và các giáo viên ngôn ngữ khắc phục được sự dao động trong việc dạy ngoại ngữ , sự dao động đó thể hiện ở việc dạy, các giáo viên dạy ngoai ngữ bây giờ có thể lựa chọn những cách dạy hiệu quả nhất trong số những phương pháp hiện có. Điều này một mặt thể hiện lớn mạnh của việc dạy học ngoại ngữ nhưng mặt khác cũng làm cho nhiều giáo viên lúng túng, không biêt lựa chọn phương pháp nào , song theo tôi phương pháp tốt nhất là mỗi giáo viên phải tự mình thử nghiệm trên cơ sở những hiểu biết về lý thuyết và dạy học ngoại ngữ. Đối với học sinh THCS là đối tượng ở giai đoạn đầu của chương trình học ngoại ngữ thì vấn đề trước tiên là học sinh phải tích luỹ được một số vốn từ vựng để có thể thực hành trong giao tiếp. Bởi vì từ vựng là những ngữ liệu cần thiết trong việc học ngoại ngữ. Nó có thể là một từ đơn lẻ hoặc từ ghép để biểu đạt một ý nghĩa duy nhất. Với những lý do trên mà tôi chọn đề tài : “ Phương pháp giới thiệu nghĩa của từ ”. II. Phạm vi nghiên cứu. Trong quá trình đổi mới về nội dung – phương pháp đối với môn Tiếng Anh có rất nhiều vấn đề tôi muốn đề cập. Song do thời gian còn hạn chế nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong một phạm vi rất nhỏ. Đó là một số vấn đề về giới thiệu nghĩa của từ ở Tiếng Anh 9. III. Mục đích nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu “ Phương pháp giới thiệu nghĩa của từ ” đối với một tiết dạy Tiếng Anh lớp 9 trường THCS Hải L . Nhằm mục đích cho bản thân học hỏi, đúc kết kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình giảng dạy khối 9 ở trường THCS Hải L IV . Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu đề tài này tôi chọn là học sinh lớp 9 trường THCS Hải L để nghiên cứu. V. Phương pháp nghiên cứu . - Nghiên cứu tài liệu . - Trao đổi cùng đồng nghiệp. - Tổng kết kinh nghiệm giáo dục. B : Giải quyết vấn đề. I. Giải pháp. Từ xưa có câu “ Học đi đôi với hành ” điều đó chứng tỏ rằng từ trước kia ông cha ta cũng đã đúc kết kinh nghiệm, muốn đạt được kết quả cao trong quá trình học tập cũng như trong công việc khác thì lý thuyết cũng gắn liền với thực tiễn. Như vậy trong quá trình giảng dạy, cũng như trong quá trình cung cấp kiến thức cho học sinh trong từng tiết học muốn có kết quả cao thì chúng ta phải lựa chọn phương pháp phù hợp với từng bài dạy và từng đối tượng học sinh. Trong chương trình dạy ngoại ngữ do Bộ GD_ ĐT đề ra, việc dạy từ vựng phải gắn liền với mẫu câu và bài hội thoại . Có nghĩa là học sinh phải nhớ từ trong tình huống giao tiếp và mẫu câu cho sẵn . Tuy nhiên điều đó chỉ có thể thực hiện trong từng đối tượng học sinh, đối với từng giai đoạn học và phụ thuộc vào nội dung của từng bài học. Ví dụ: Khi giáo viên dạy những bài đối thoại của chương trình Tiếng Anh lớp 9. Để học sinh có thể hiểu được tình huống và nội dung bài đối thoại ,giáo viên nên cho việc giới thiệu tình huống và nội dung bài hội thoại bằng tiếng việt. Ví dụ - Mrs Mi: What’s the matter, Mrs Ha? - Mrs Ha: I’m worried about my most recent water bill it’s enormous. - Mrs Mi: let me see, 200,000 dong ! you should reduce the amomt of water your family uses. ( Unit 7 – English 9 ) Với bài đối thoại này , giáo viên chỉ cần giới thiệu nội dung không cần tách riêng phần từ mới. Nhưng càng lên cao, tính chất ngữ pháp càng phức tạp, nếu theo phương pháp này thì học sinh không thể nhớ nội dung bài học. Vậy việc giới thiệu từ mới lại giữ một vai trò cần thiết để giúp học sinh hiểu bài và vận dụng trong thực tế. Từ trước đến nay, với lý do phương tiện dạy học ngoai ngữ còn thiếu thốn, thời gian eo hẹp, số lượng học sinh lại quá đông chúng ta vẫn thường giới thiệu từ mới theo một phương pháp đơn điệu . Đó là giáo viên thường ghi từ và nghĩa Tiếng Việt lên bảng, đọc và cho học sinh đọc lặp lại , với cách dạy học này học sinh thường thiếu hứng thú, nhớ từ một cách máy móc, và dễ quên. Để khắc phục tình trạng đó, chúng ta có thể áp dụng một số pương pháp sinh động hơn, gây hứng thú cho người học và làm cho người học nhớ lâu hơn. Đổi mới chương trình sách gióa khoa cùng với sự đổi mới phương pháp dạy học nói chung, đối với bộ môn Tiếng Anh nói riêng là sự cần thiêt đối với sự phát triển của toàn xã hội. Tiếng Anh là một công cụ giao tiếp tạo điều kiện cho sự hoà nhập với cộng đồng quốc tế và khu vực, tiếp cận với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật trên thế giới với các nền văn hoá khác cũng như các sự kiện quốc tế quan trọng. Chính vì điều đó mà người dạy phải đổi mới phương pháp dạy học theo tính tích cực hoá các hoạt động của học sinh, phải khai thác được các khả năng tư duy sáng tạo của học sinh trong từng đơn vị bài học ( Muốn làm được như vậy thì người dạy phải lựa chọn những phương pháp và sử dụng đồ dùng dạy học một cách hợp lý trong từng tiết dạy ) a) Dạy hình thái và ngữ nghĩa. Khi nói dạy từ vựng là dạy bài mới : Đó là dạy hình thái, nghĩa và cách dùng của từ đó trong câu. Dạy hình thái của từ bao gồm dạy cách đọc, cách viết ngữ pháp của từ và cấu tạo của từ. Dạy ngữ nghĩa của từ là dạy những biến đổi của từ trong ngữ cảnh, ngữ pháp nào đó . Ví dụ. Take (thì hiện tại ) -> took (thì quá khứ ) -> taken (quá khứ phân từ) Like + To_infinitive. Woman (1 người phụ nữ) -> Women (những người phụ nữ ) Dạy cấu tạo của từ là dạy các tiền tố : Ví dụ : “un” trong “unpleasant” các hậu tố ( ví dụ: er, trong “player) các từ ghép ( ví dụ : past - time , time - consuming .) Dạy nghĩa của từ là dạy nghĩa biểu vật (denontation) và nghĩa biểu cảm. nghĩa biểu vật là nghĩa vốn sẵn của từ khi tra trong từ điển. Ví dụ: “dog” ( con chó ) nghĩa biểu cảm là nghĩa tạo ra một sự liên tưởng nào đó, hoặc tình cảm thái độ người nghe, người đọc. Ví dụ “dog”(con chó) đối với người Anh là biểu tượng của lòng trung thành . Ngoài ra giáo viên còn phải dạy các mối quan hệ ngữ nghiã của từ. Đó là: + Từ đồng nghĩa: Ví dụ .clever ≈ smart ≈intelligent ( thông minh) + từ khác nghĩa : Ví dụ : rich( giàu có )>< Poor (nghèo) b) Dạy cách sử dụng từ . Trong cách sử dụng từ , ngoài cách kết hợp thông thường ra. Ví dụ : (Tính từ Tiếng Anh thường đứng trước danh từ : a red book, a pretty girl) phải chú ý đến cách kết hợp cố định của một số từ trong các cách sử dụng của chúng. ví dụ – to take / make a decision : quyết định to come to conclution : kết luận dead tired : rất mệt Ngoài ra, giáo viên cũng phải giúp học sinh phân biệt đượcviệc sử dụng từ sao cho phù hợp với các tình huống, ngữ cảnh giao tiếp khác nhau. II- Các biên pháp thực hiện a) Giới thiệu nghĩa của từ bằng phương tiện trực quan. Trong giai đoạn đầu của chương trình học Tiếng Anh học sinh phải rèn luyện hai kỹ năng nghe nói vì vậy phương tiện trực quan đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập mối quan hệ giữa âm thanh và hình ảnh, giúp học sinh liên tưởng để hiểu được ngôn ngữ một cách trực tiếp, thông qua thông dịch. Trong khi dạy từ mới, đặc biệt là những từ nội dung giáo viên rất cần đến đồ dùng trực quan như các đồ vật thực như tranh ảnh hình vẽ. Giáo viên có thể giúp học sinh thấy được nghĩa của từ bằng cách sử dụng vật thật trong lớp học , có thể giới thiệu bất cứ từ nào tương ứng với các đồ vật có sẵn trong lớp học như bàn, ghế, sách vở, quần áo, các bộ phận trên cơ thể con người. hay các đồ vật có thể mang được đến lớp như nón, mũ, khăn tay.. Với các từ không thể giới thiệu được bằng vật thực, giáo viên có thể dùng tranh, hoặc vẽ hình ảnh đơn giản lên bảng. Ví dụ- Các từ sau đây có thể giới thiệu bằng tranh được chuẩn bị trước. Remote control - stream - hedge - bottle hoặc có thể vẽ hình đơn giản lên bảng a plaid skirt - blue shorts ( Unit 2 : clothing – Enghsh 9) Ngoài cách giới thiệu bằng hình ảnh và vật thực, giáo viên có thể giới thiệu bằng cách dùng điệu bộ, hành động và các biểu hiện trên khuôn mặt. Thủ thuật này dùng khi giới thiệu từ với hầu hết các động từ chỉ hành động. Đây cũng là một phương tiện trực quan mà ta có thể dùng để giới thiệu các từ hoạt động, một số tính từ. Ví dụ : Write , open , close.. Sad , tired , happy . Hay có thể kết hợp hình vẽ và thể hiện cử chỉ ví dụ : Dạy động từ : smile , cry Giáo viên nói : look ! He is crying look ! He is smiling Học sinh có thể làm theo và đọc “smile” và “cry” Tất nhiên, từ mới được giới thiệu bằng phương pháp trực quan phải là từ có thể thực hiện nhanh chóng dễ hiểu và rõ ràng. b) Giới thiệu nghiã của từ bằng cách cho ví dụ : Để giới thiệu từ một cách có hiệu quả giáo viên có thể lấy ví dụ cho mỗi từ. ví dụ : Giới thiệu từ : a poet ( Nguyen Du , To Huu are ) slit ( to make a long thin cut in something) (Unit 2 – English 9 ) - examiner ( a person who ask questions to find ont how much a person know) - candidate (one who takes part in an exam ) ( Unit 3 - English 9 ) Một ví dụ dễ hiểu cần phải được rõ ràng để chỉ ra nghĩa của từ. Ví dụ : Không chỉ nói “ My brother is lazy ” (Anh, trai của tôi lười biếng) nó không chỉ ra được nghĩa của “ Lazy” (lười biếng) Vậy chúng ta cần thêm : He gets up late and then does notthing all day. (Anh ta dậy muộn và không làm gì cả) => He is lazy Theo cách này giáo viên có thể đưa ra những câu đơn giản và phải là câu kể c) Giới thiệu nghĩa của từ bằng cách nêu từ đồng nghĩa và từ trái nghĩa. Đối với một số từ mới, học sinh có thể không biết nghĩa của các từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa của chúng. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp này khi học sinh đã có vốn từ tưpng đối để suy ra nghĩa của từ. ví dụ : Từ trái nghĩa Terrfic ( tuyệt vời) >< terrible : (tồi tệ) Generous (rộng lượng) >< mean (tầm thường) Có thể giới thiệu các tính từ hay một số động từ theo cách này. Từ đồng nghĩa là các từ cùng loại hoặc có nghĩa tương đương marvelous ≈ wonderful (tuyệt diệu) extensive ≈ large (lớn, rộng lớn) (Unit 9/10 – Englih 9 ) d) Giới thiệu nghĩa của từ bằng cách dùng định nghĩa. Giáo viên tra từ điển và ghi cho học sinh định nghĩa của từ cần dạy một cách ngắn ngọn, rõ ràng. Phương pháp này chỉ sử dụng đối với nhóm học sinh đã có vốn từ khoảng 1500 từ. ví dụ : cat ( con mèo ) -> (a small, furry animal kept as pet and useful for catching mice) ->Một loài thú nhỏ có lông được nuôi như một con vật yêu thích trong nhà và có ích trong việc bắt chuột. e)Dùng trường nghĩa. Giáo viên nêu ra một nhóm từ có quan hệ về nghiã với nhau để giúp học sinh suy ra nghiã của từ cần dạy ví dụ : Từ “ celebrations” (Lễ kỷ niệm) được giới thiệu qua mối quan hệ với các từ : Easter (Lễ phục sinh), Lunar New year (Tết Nguyên Đán ), Wedding (Đám cưới).. ( Unit 8 – English 9 ) Tóm lại , các phương pháp giới thiệu từ mới này còn phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau : thời gian nội dung của từng bài ,mức độ hiểu biết và chất lượng học sinh .Từ đó các phương pháp mới có thể thực hiện được và đạt kết quả tốt , cơ hội cho học sinh thực hành các ngữ liệu đã học qua việc sử dụng tiếng Anh để trả lời câu hỏi. Để có một phương pháp dạy học từ mới có hiệu quả giáo viên nên làm theo những bước sau: + Đọc từ mới cho học sinh nghe và ghi từ đó lên bảng (đối với học sinh yếu), cho học sinh tìm từ mới và ghi lên bảng (đối với học sinh khá giỏi ). + Giải thích nghĩa (bằng một trong các phương pháp trên). +Cho ví dụ về cách sử dụng từ. + Yêu cầu học sinh đọc theo giáo viên : đồng thanh và cá nhân. +Dịch sang tiếng mẹ đẻ (khi cần thiết ). +Yêu cầu học sinh chép từ vào vở. + Đặt câu hỏi giúp học sinh sử dụng từ mới học. C. kết luận 1. Kết quả thực hiện: Khi đưa các biện pháp trên đây vào thực hiện trong một giờ học cụ thể , chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy rằng học sinh không chỉ có hứng thú tiếp thu từ mà có thể nhớ từ rất nhanh . Ví dụ . Cùng dạy các danh từ sau đây Easter – Christmas – Wedding ở hai lớp khác nhau : Lớp 9C và lớp 9D với 2 phương pháp khác nhau . ở lớp 9C giáo viên ghi 3 từ mới lên bảng và nghĩa tiếng việt sau đó giáo viên phát âm và cho học sinh lặp lại, cách này có vẻ nhanh đơn giản và không mất thời gian nhưng không gây được hứng thú học tập trong lớp . ở lớp 9D giáo viên chuẩn bị sẵn một số bức tranh khi giới thiệu từ chỉ viết từ lên bảng . sau đó đưa từng bức tranh và giới thiệu. hơi mất thời gian nhưng học sinh rất hứng thú trong giờ học, sau đó giáo viên kiểm tra học sinh có hiểu từ không bằng cách cho học sinh dịch sang tiếng việt. -Kết quả thu được qua 2 lớp dạy Lớp 9C 50% học sinh nhớ các từ và sau một thời gian một số em quên nghĩa của từ lớp 9D 80% học sinh nhớ các từ và nắm vững rất lâu . Từ những kết quả trên chúng ta nhận thấy rằng nếu có thể thực hiện được phương pháp dạy từ vựng sinh động như trên thì hứng thú đối với việc học ngoại ngữ của học sinh sẽ tăng lên mà kết quả lại khả quan hơn nhiều so với thực trạng . 2.Bài học kinh nghiệm. Do điều kiện và hoàn cảnh chung của chúng ta hiện nay, giáo viên và học sinh không được tiếp cận với những phương tiện dạy học hiện đại, đó là sự thiệt thòi cho cả người dạy lẫn người học. Là giáo viên đóng vai trò hướng dẫn trong dạy học chúng ta cần phải luôn luôn cố gắng đầu tư thời gian có ý thức tìm tòi để tìm một phương pháp tốt nhất giúp học sinh làm chủ được một ngoại ngữ nào đó thì mọi vấn đề liên quan đến việc dạy và học ngoại ngữ sẽ được giải quyết ổn thoả. Đây là lần thử nghiệm đầu tiên của tôi sẽ không tránh khỏi sai sót . tôi muốn nhận được những đóng góp bổ ích và thiết thực từ đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn , góp phần nâng cao chất lượng dạy ngoại ngữ nói chung và Tiếng Anh nói riêng ở các trường trung học . 3.ý kiến đề suất. - Công ty thiết bị đồ dùng nên bổ sung nhiều hơn về tranh ảnh cho các chủ đề của sách. - Tích cực mua sắm thêm trang thiết bị đặc biệt và hiện đại như đèn chiếu. - Tổ chức nhiều hơn nữa các tiết chuyên đề đặc biệt là phương pháp giảng dạy, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, nâng cao chất lượng đối với đối với học sinh yếu kém. Như vậy giáo viên mới có điều kiện trao đổi kinh nghiệm giảng dạy với nhau và cùng nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Anh trong nhà trường. Hải lộc, ngày 02 tháng 04 năm 2007 Người thực hiện Phan Thị Thuý Cẩm
File đính kèm:
- Sang kien KN PP.doc