Sáng kiến kinh nghiệm Dạy trẻ vệ sinh cá nhân và thói quen văn minh trong giao tiếp

I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:

Chăm sóc sức khỏe trẻ thơ là công việc của toàn xã hội. Trẻ em nếu được chăm sóc nuôi dưỡng đầy đủ sẽ ít ốm đau bệnh tật và phát triển tốt. Công tác chăm sóc giáo dục vệ sinh cá nhân trẻ trong độ tuổi mầm non là việc làm thiết thực nhằm giúp trẻ có nề nếp thói quen vệ sinh, phòng tránh bệnh tật, tăng cường sức khỏe, hình thành những kĩ năng sống cơ bản đầu tiên, góp phần tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong tương lai. Sức khỏe là vốn quý nhất của con người. Ngoài yếu tố di truyền, chăm sóc sức khỏe chế độ dinh dưỡng hợp lí thì phần lớn sức khỏe phụ thuộc vào yếu tố chăm sóc vệ sinh. Bao gồm vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân. Đối với trẻ mầm non việc giáo dục ý thức vệ sinh cá nhân nhằm giúp trẻ khỏe mạnh, có thói quen vệ sinh có hành vi văn minh và phòng chống bệnh tật. Việc làm này cần có sự kiên trì, tỉ mỉ của cô giáo, sự phối hợp rèn luyện thói quen cho trẻ của gia đình- nhà trường, sự đầu tư trang bị chăm sóc vệ sinh và các điều kiện thuận tiện cho hoạt động vệ sinh của trẻ. Không phải trẻ nhỏ nào cũng có thói quen biết rửa tay lúc bẩn, trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, biết đánh răng, rửa mặt đúng quy trình muốn tạo được thói quen cho trẻ thì nhiệm vụ của cô giáo là hết sức quan trọng. Cô giáo phải thường xuyên rèn luyện và tạo thói quen cho trẻ với nhiều hình thức.

docx14 trang | Chia sẻ: bachha2 | Ngày: 11/01/2025 | Lượt xem: 44 | Lượt tải: 0Download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Dạy trẻ vệ sinh cá nhân và thói quen văn minh trong giao tiếp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HUYỆN NGHĨA HƯNG
TRƯỜNG MẦM NON XÃ NGHĨA TRUNG
.............. š¶› ..............
HỒ SƠ SÁNG KIẾN
“DẠY TRẺ VỆ SINH CÁ NHÂN VÀ THÓI QUEN VĂN MINH TRONG GIAO TIẾP”
Tác giả: Phạm Thị Vân Anh
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm mầm non
Chức vụ: Giáo viên	
Nơi công tác: Trường Mầm non xã Nghĩa Trung
 Nam Định, ngày 20 tháng 05 năm 2022
Địa danh, Ngày......tháng.......năm .....
.
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN 
Kính gửi: Ban giám hiệu trường mầm non xã Nghĩa Trung
Tôi ghi tên dưới đây:
Số TT
Họ và tên
Ngày tháng năm sinh
Nơi công tác
(hoặc nơi thường trú)
Chức danh
Trình độ chuyên môn
Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến
(ghi rõ đối với từng đồng tác giả, nếu có)
 1
Phạm Thị Vân Anh
05/06/1972
Trường mầm non xã Nghĩa Trung 
Giáo viên 
 Đại học sư phạm mầm non
 
Là tác giả (nhóm tác giả) đề nghị xét công nhận sáng kiến: 
“Dạy trẻ vệ sinh cá nhân và thói quen văn minh trong giao tiếp” 
- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục (03)/cấp học: GDMN
- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử, (ghi ngày nào sớm hơn): 
Từ ngày 01 tháng 09 năm 2021
 - Mô tả bản chất của sáng kiến: Nghiên cứu áp dụng các biện pháp mới vào công tác giảng dạy, chia sẻ: “Dạy trẻ vệ sinh cá nhân và thói quen văn minh trong giao tiếp” mà tôi đã và đang thực hiện.
- Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Đối tượng áp dụng là trẻ 3 – 4 tuổi, phụ huynh giáo viên lớp mẫu giáo độ tuổi 3 – 4 tuổi.
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: Nâng cao ý thức vệ sinh cá nhân và thói quen văn minh, giúp trẻ hình thành ý thức, thói quen bảo vệ môi trường ngay từ những năm đầu đời.
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử:............................................. ...........................................................
Tôi (chúng tôi) xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
 
Nghĩa Trung, ngày 20 tháng 05 năm 2022
Người nộp đơn
(Ký và ghi rõ họ tên)
Phạm Thị Vân Anh

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
THÔNG TIN CHUNG
1. Tên sáng kiến: “Dạy trẻ vệ sinh cá nhân và thói quen văn minh trong giao tiếp” 
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực phát triển Tình cảm và KNXH
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 4 năm 2022
4. Tác giả: 
	Họ và tên: Phạm Thị Vân Anh 
	Năm sinh: 05/06/1972
	Nơi thường trú: Xã Nghĩa Trung - Huyện Nghĩa Hưng- Tỉnh Nam Định
	Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm mầm non
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường mầm non xã Nghĩa Trung
Điện thoại: 0948283426
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100%
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến: 
	Tên đơn vị: Trường mầm non xã Nghĩa Trung
	Địa chỉ: Xóm 9- Nghĩa Trung- Nghĩa Hưng- Nam Định
	Điện thoại: 0915781566
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến: 
Chăm sóc sức khỏe trẻ thơ là công việc của toàn xã hội. Trẻ em nếu được chăm sóc nuôi dưỡng đầy đủ sẽ ít ốm đau bệnh tật và phát triển tốt. Công tác chăm sóc giáo dục vệ sinh cá nhân trẻ trong độ tuổi mầm non là việc làm thiết thực nhằm giúp trẻ có nề nếp thói quen vệ sinh, phòng tránh bệnh tật, tăng cường sức khỏe, hình thành những kĩ năng sống cơ bản đầu tiên, góp phần tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong tương lai. Sức khỏe là vốn quý nhất của con người. Ngoài yếu tố di truyền, chăm sóc sức khỏe chế độ dinh dưỡng hợp lí thì phần lớn sức khỏe phụ thuộc vào yếu tố chăm sóc vệ sinh. Bao gồm vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân. Đối với trẻ mầm non việc giáo dục ý thức vệ sinh cá nhân nhằm giúp trẻ khỏe mạnh, có thói quen vệ sinh có hành vi văn minh và phòng chống bệnh tật. Việc làm này cần có sự kiên trì, tỉ mỉ của cô giáo, sự phối hợp rèn luyện thói quen cho trẻ của gia đình- nhà trường, sự đầu tư trang bị chăm sóc vệ sinh và các điều kiện thuận tiện cho hoạt động vệ sinh của trẻ. Không phải trẻ nhỏ nào cũng có thói quen biết rửa tay lúc bẩn, trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, biết đánh răng, rửa mặt đúng quy trìnhmuốn tạo được thói quen cho trẻ thì nhiệm vụ của cô giáo là hết sức quan trọng. Cô giáo phải thường xuyên rèn luyện và tạo thói quen cho trẻ với nhiều hình thức.Quá trình thực hiện nội dung giáo dục và rèn luyện thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ ở trường mầm non đã được giáo viên năng động, sáng tạo, tìm tòi nhiều hình thức và phương pháp phù hợp để chuyển tải những nội dung và kĩ năng rửa tay bằng xà phòng, rửa mặt đến trẻ.Các hoạt động trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non rất đa dạng và phong phú. Quan hệ giữa cô và các cháu là quan hệ mẹ con gần gũi nhau trong từng biểu hiện, từ lời nói đến hành động. Phát huy đặc trưng các môn học chúng ta phải thể hiện hết chức năng và chăm sóc giáo dục, hai chức năng này song song hòa quyện với nhau, trong giáo dục có lồng ghép chăm sóc 
Gi¸o dôc MÇm non cã tÇm quan träng rÊt lín ®èi víi ®êi sèng con ng­êi: Ca dao x­a cã c©u “ D¹y con tõ thña cßn th¬” c©u ca dao Êy đã ®i vµo lßng ng­êi vµ kh«ng thÓ nµo quªn ., là giáo viên mầm non tôi cũng hiểu hơn về ý nghĩa sâu sắc của câu tục ngữ đó. Các cháu mầm non với đôi mắt trong veo đầy thơ mộng, tâm hồn trẻ như tờ giấy trắng, nếu khéo vẽ thì tròn, còn không khéo thì méo mó. Suy nghĩ nhiều về vấn đề đó, tôi nghĩ mình cần phải đầu tư nhiều vào việc giáo dục lễ giáo cho các cháu tô điểm vào tâm hồn các cháu những cái hay cái đẹp, để các cháu trở thành những bông hoa thơm ngát, là người có hành vi văn minh lịch sự. Vì vậy ngay từ đầu năm học này tôi quyết định chọn đề tài “DẠY TRẺ VỆ SINH CÁ NHÂN VÀ THÓI QUEN VĂN MINH TRONG GIAO TIẾP”
II. Mô tả giải pháp kỹ thuật 
II.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến. 
Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ trong các trường mầm non hiện nay tuy không còn mới song rất nhiều giáo viên còn chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của vấn đề hoặc thiếu kỹ năng tổ chức để có thể truyền tải đến cho trẻ hiểu và hình thành cho trẻ những kỹ năng sống cần thiết. Bên cạnh đó, việc giáo dục kỹ năng sống chưa trở thành một môn học với một giáo trình chuẩn, vì vậy mỗi giáo viên lại tự lựa chọn cho mình những phương pháp khác nhau, đôi khi kết quả mang lại không cao mà còn khiến việc giáo dục trẻ trở nên thụ động không linh hoạt. Chính vì vậy, năm học 2021- 2022, tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi với tổng số cháu là 34 cháu. Ngay từ đầu năm học tôi đã chú trọng tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí trẻ cũng như thực trạng về vốn kỹ năng sống của trẻ lớp mình, từ đó tôi nghiên cứu và chọn lọc các biện pháp giáo dục cho phù hợp. Trong quá trình thực hiện tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau: 
 a. Thuận lợi :
- Được sự chỉ đạo của Phòng Giáo dục và Đào Tạo huyện Nghĩa Hưng cùng với sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường về đầu tư CSVC, trang thiết bị nhóm lớp 
- BGH thường xuyên tạo điều kiện cho tôi được tham gia các lớp tập huấn bồi dưỡng và nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ dành cho giáo viên cũng như tạo điều kiện cho tôi nghiên cứu và ứng dụng SKKN trong thực tiễn giảng dạy.
- Trẻ đi học chuyên cần, khỏe mạnh nhanh nhẹn, tích cực tham gia vào các hoạt động của lớp.
- Phụ huynh tin tưởng và luôn ủng hộ mọi phong trào của trường cũng như của lớp.
- Bản thân là một giáo viên được đào tạo trình độ đạt chuẩn, nắm vững chuyên môn, luôn nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, tâm huyết với nghề, ham học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tôi thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu tài liệu như tạp chí, thông tin trên mạng có liên quan đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ để áp dụng vào hoạt động của cô và trẻ hằng ngày nhất là việc giáo dục về kỹ năng sống cho trẻ.
- Hai giáo viên ở lớp luôn phối kết hợp thống nhất phương pháp, biện pháp giáo dục trẻ, thường xuyên dành thời gian trao đổi với phụ huynh để cùng chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. 
 - Là giáo viên có nhiều tâm huyết với nghề, và có kinh nghiệm giảng dạy, hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi và đặc điểm nhận thức của trẻ.
 b. Khó khăn:
	- Tôi được phân công dạy lớp mẫu giáo bé. Ở độ tuổi này trẻ dường như đang trong giai đoạn khủng hoảng về tâm lý. Nhiếu khi cô mới chỉ dạy một vài lần đã nhớ, nhưng có khi nói mãi mà trẻ vẫn chưa hiểu ra vấn đề. Chính điều này làm cho phụ huynh cũng hoang mang trong việc dạy con, do đó, khi trẻ chưa biết đọc, biết cầm bút hay biết viết thì thường lo lắng một cách thái quá, từ đó chỉ chú trọng việc dạy học cho trẻ mà không quan tâm nhiều đến những kỹ năng sống. Bên cạnh đó, đa số cha mẹ làm công nhân, việc đưa đón trẻ đều do ông bà vì thế việc tuyên truyền, phối hợp với cha mẹ trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ còn hạn chế.
- Số lượng trẻ trong lớp đông, nhận thức của trẻ không đồng đều, mỗi trẻ lại có đặc điểm cá tính riêng biệt vì thế việc quan tâm, sát sao tất cả trẻ trong các hoạt động là điều hết sức khó khăn.
	- Nhiều trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống hiện đại như: Internet, tivi, các trò chơi điện tử... nên trẻ không quan tâm nhiều đến các hoạt động khác.
- Trẻ được sống trong môi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm, không có tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh.
- Nhiều phụ huynh chưa có hành vi đúng đắn và lời nói mẫu mực thậm chí nói những điều tục tằn ngay trước mặt con trẻ.
 Từ số liệu điều tra thực tế trên cho thấy kỹ năng sống và việc thực hiện kỹ năng sống của trẻ còn thấp. Qua đó tôi nhận thấy cần phải thay đổi cách nghĩ, cách nhìn nhận về biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Làm thế nào để trẻ lớp tôi có những kỹ năng sống cơ bản và cần thiết, đáp ứng được với xu thế phát triển của xã hội ngày càng phức tạp như hiện nay. Từ những suy nghĩ đó tôi mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng “DẠY TRẺ VỆ SINH CÁ NHÂN VÀ THÓI QUEN VĂN MINH TRONG GIAO TIẾP” vào công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ tại lớp 3- 4 tuổi mà tôi đang chủ nhiệm. 
II.2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
Rút kinh nghiệm qua những biện pháp mà tôi đã áp dụng chưa hiệu quả trước đó, tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng những biện pháp mới. Và dưới đây là những biện pháp mà tôi đã áp dụng và đạt được những kết quả khả quan: 
a, Tạo điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết để trẻ được thường xuyên thực hiện được những quy định về vệ sinh.
- Muốn thực hiện được những quy định về vệ sinh thì phải có phương tiện thực hiện. VD: Cô dạy các cháu bỏ rác vào sọt (giỏ rác) thì lớp phải có giỏ rác cho các cháu bỏ, có phương tiện lại được thực hiện thường xuyên ở lớp cũng như ở nhà, cháu sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen vệ sinh đó. Cô cùng gia đình kết hợp dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, nếu có điều kiện để rèn luyện những kỹ năng thực hành vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
- Rèn trẻ thông qua các hoạt động của lớp trong ngày. VD: Lúc đón trẻ vào lớp phải chào cô, cô hướng dẫn trẻ xếp mũ nón vào giá, chải đầu, đi dép đúng chân.
- Giờ ăn trưa: Dạy trẻ rửa tay lau mặt, mời cô, các bạn, cầm muỗng đúng tay.
- Ăn nhai từ tốn, không nhai nhồm nhoằm và nuốt vội.
- Không ngậm thức ăn lâu trong miệng – không vừa ăn vừa chơi, vừa nói chuyện, đi lại lung tung. Không xúc qua đầu, không bỏ dở suất ăn, biết nhặt cơm rơi vào đĩa riêng – ăn xong lau miệng.
* Uống nước từ từ, không làm đổ, không làm vỡ cốc, không rót nước quá đầy, thò tay vào bình nước, không uống nước lã.
* Mặc: Trang phục quần áo gọn gàng sạch sẽ – không mặc quần áo bẩn, rách, đứt cúc, không ngồi lê trên sàn đất hoặc bôi bẩn vào quần áo – thường xuyên tắm rửa thay quần áo.
* Với bạn bè: Biết nhường nhịn bạn khi chơi và cùng chơi không đánh cãi nhau gây gổ bắt nạt bạn yếu.
* Với thiên nhiên môi trường:
- Biết yêu quý bảo vệ cảnh đẹp của thiên nhiên, không hái hoa ngắt lá, bẻ cành cây ở trường, lớp vườn hoa. Chăm tưới cây, nhổ cỏ, dọn vệ sinh.
- Giờ chơi phản ánh sinh hoạt. Dạy trẻ biết rửa chén, bát đĩa xoong, chảo Dạy trẻ biết tôn trọng yêu kính người lớn tuổi, người trong gia đình biết giúp đỡ lẫn nhau.
* Giờ vẽ: dạy trẻ ngồi đúng tư thế không nói chuyện.
* Giờ trả trẻ: Cô nhắc nhở phụ huynh cùng với cô, giáo dục các cháu theo chủ điểm yêu cầu của lớp học
b. Cô giáo cần nắm được các trình tự sau đây để hình thành một thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
- Các cháu mẫu giáo nhỡ tuy còn nhỏ nhưng cũng có khả năng tiếp thu được những kiến thức thông thường vì vậy cô cần phải hướng dẫn cho các cháu biết những điều cần thiết của từng yêu cầu vệ sinh và những tác hại của việc không thực hiện đúng yêu cầu đó, lời hướng dẫn của cô phải đơn giản, rõ ràng, chính xác, dể hiểu.
- Chuẩn bị lời hướng dẫn và động tác mẫu.
- Cô giáo hướng dẫn cho trẻ được nội dung yêu cầu.
- Nhắc nhở các cháu thực hiện thường xuyên. Muốn hình thành một thói quen vệ sinh ngoài việc làm cho trẻ hiểu được ý nghĩa có kỹ năng cần phải làm cho trẻ được thực hành thường xuyên, có như vậy mới ăn sâu vào nếp sống của trẻ. Hành động sẽ trở thành thói quen khi đứa trẻ có nhu cầu từ bên trong. VD: Cháu A trước khi ăn nếu không rửa tay sẽ thấy khó chịu
- Các cháu có thể làm tốt các công việc tự phục vụ bản thân vì vậy đối với những việc có thể làm mẫu được cô cần chuẩn bị tốt lời hướng dẫn và làm thành thạo động tác mẫu, vừa làm vừa giải thích, cô có thể tập truớc cho một cháu để cháu đó làm mẫu cho các cháu khác làm theo. VD: Thao tác đánh răng một cháu thực hiện các cháu khác làm theo – cô đọc lời hướng dẫn.
c. Giáo viên phải nắm được yêu cầu rèn luyện và kỹ năng thực hành cho trẻ.
- Ngoài những thói quen vệ sinh ở lớp, giáo viên cần rèn luyện thêm cho các cháu những thói quen vệ sinh sau:
+ Trẻ tự rửa mặt, rửa tay trước khi ăn, sau khi đi đại tiện, chải đầu, đánh răng.
+ Có ý thức giữ vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng người khác như: không nhổ bậy, không vứt rác ra lớp học, nơi công cộng, biết sử dụng nước sạch..
+ Biết giữ nhà cửa, đồ dùng đồ chơi gọn gàng sạch sẽ. Biết giúp cô lau bàn ghế, rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp.
+ Trẻ tự mặc quần áo, biết đòi hỏi người lớn phải cho mình ăn mặc gọn gàng sạch sẽ.
+ Biết gấp cất trải nệm, gối.
+ Khi ra nắng biết đội mũ nón và biết mặc áo mưa khi trời mưa.
-> Trẻ bắt đầu hình thành vững chắc các quy tắc vệ sinh cá nhân và nếp sống văn minh.
- Các kỹ năng cần rèn cho trẻ.
+ Trẻ phải thành thạo các kỹ năng thực hành vệ sinh của lớp mầm, ngoài ra cô cần rèn cho trẻ.
+ Biết giúp cô giặt khăn, phơi khăn.
+ Biết dùng tay – khăn che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, hỉ mũi
d, Cô giáo cần nắm vững một số biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
- Các cháu đến lớp học sinh hoạt ở lớp chiếm 1 thời gian rất dài trong ngày, nếu cô sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ mọi sinh hoạt của lớp có nề nếp làm cho lớp học vui tươi đầm ấm. Tất cả những cái đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ. Lớp học sạch đẹp cháu không nỡ vất rác bừa bãi, cháu không vất đồ chơi lung tung, khi mọi thứ trong lớp điều được sắp xếp theo đúng chỗ quy định. Nếu hàng ngày cô thực hiện nghiêm túc thời gian biểu cháu sẽ thực hiện đúng giờ nào việc đó. Vì những việc làm tốt được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ thành thói quen tốt.
- Sự gương mẫu của cô và những người xung quanh. Đặc điểm của trẻ là hay bắt chước, có thể bắt chước cái đúng, cái tốt, nhưng cũng có thể bắt chước cái sai, cái xấu. Vì vậy cô giáo và mọi người xung quanh cần phải tự rèn bản thân và tuân thủ những yêu cầu vệ sinh của nhà trường, thực hiện triệt để lời nói phải đi đôi với việc làm để thực sự là tấm gương sáng cho các cháu noi theo.
e, Phối kết hợp với gia đình để tuyên truyền giáo dục trẻ:
- Muốn trẻ hình thành được các thói quen vệ sinh hành vi văn minh trong giao tiếp thì trong hoạt động chăm sóc giáo giục trẻ cô luôn khuyến khích giáo dục trẻ mỗi khi trẻ làm tốt, đặc biệt khi giáo dục vệ sinh cho trẻ thì nhà trường và gia đình phải thống nhất yêu cầu giáo dục vệ sinh đối với trẻ. Nhà trường và giáo viên thông báo, yêu cầu biện pháp giáo dục vệ sinh cho phụ huynh biết, yêu cầu phụ huynh cần theo dõi giúp đỡ và cho biết tình hình thực hiện ở nhà để cùng phối hợp giáo dục rèn luyện cho trẻ.
- Thực hiện lồng ghép tuyên truyền chăm sóc giáo dục trẻ trong đợt họp phụ huynh đầu năm
- Hàng ngày trong giờ đón trả trẻ: Trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khỏe của trẻ, về những dịch bệnh đang có cần đề phòng, vận động phụ huynh tiêm đầy đủ vắc xin cho trẻ( tiêm vắc xin tự nguyện không có trong chiến dịch tiêm chủng mở rộng dành cho trẻ từ 0 đến 6 tuổi) để phòng bệnh cho trẻ, kết hợp với phụ huynh nhắc nhở trẻ thường xuyên vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường ở nhà
- Treo tranh tuyên truyền : Quy trình rửa tay, hành động đúng sai về vệ sinh cá nhân vệ, hành vi văn minh trong giao tiếp ở nơi thuận tiện giúp phụ huynh nắm được
f, Biện pháp trò chuyện nêu gương trẻ
- Trò chuyện với trẻ về ích lợi tác dụng của vệ sinh cá nhân với sức khỏe của bản thân nói riêng và của con người nói chung
- Phát cờ thưởng phiếu bé ngoan cho trẻ vào cuối tuần đối với những trẻ ngoan, sạch thực hiện tốt vệ sinh cá nhân và những hành vi văn minh khi giao tiếp
- Nhắc nhở, động viên những trẻ còn thực hiện chưa tốt
Như vậy, qua một năm đi sâu nghiên cứu và thực hiện đề tài, cùng với sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được những kết quả tích cực khi áp dụng: “Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 3 – 4 tuổi ở trường mầm non” mà tôi đã nghiên cứu. Những kết quả đó được thể hiện cụ thể như sau:
III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại: 
Hiệu quả kinh tế 
- Trên đây là kết quả học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu, phát hiện trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ trên thực tế của tôi nên không tốn kém về kinh phí.
2.Hiệu quả xã hội
* Về phía giáo viên:
- Tự tin, sáng tạo hơn trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ.
- Có mối quan hệ chặt chẽ và tạo được sự uy tín đối với phụ huynh và với trẻ, được phụ huynh tín nhiệm.
- Mạnh dạn dám nghĩ, dám làm, khắc phục mọi khó khăn để giúp trẻ có được những kỹ năng sống ngay từ khi còn nhỏ. 
* Về phía phụ huynh:
- Phụ huynh hưởng ứng tích cực, thường xuyên trao đổi và cùng phối kết hợp với giáo viên để cùng rèn kỹ năng sống cho trẻ và rất tin tưởng cô giáo bởi họ tự nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của con mình.
- Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái đã gần gũi thường xuyên chia sẻ với con hơn, ít la mắng trẻ, phân việc cho trẻ, hướng dẫn trẻ tự làm những công việc phục vụ bản thân như: Trẻ tự đeo ba lô, tự vào lớp...
- Cha mẹ cảm thấy hài lòng với kết quả của con mình đạt được và đã có sự quan tâm bằng việc ủng hộ giáo viên những nguyên vật liệu để giáo viên và trẻ làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ ở lớp...
 * Về phía trẻ:
Qua một năm học áp dụng nội dung yêu cầu và các biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ mẫu giáo bé, nhìn chung cuối năm học các cháu đã hình thành những thói quen vệ sinh và hành vi văn
- Tự rửa mặt, rửa tay chải đầu, thay quần áo sử dụng thành thạo dụng cụ vệ sinh.
- Biết giữ nhà cửa, đồ dùng, đồ chơi sạch sẽ.
- Biết bỏ rác vào giỏ, không vất rác bừa bãi.
- Biết đi tiêu tiểu đúng nơi quy định.
- Trẻ không ăn quả xanh, uống nước lã.
- Khi ăn cơm trẻ không làm rơi vãi.
- Các cháu đã thể hiện được nếp sống văn minh lịch sự.
- Biết đi thưa về trình.
- Khi gặp người lớn biết lễ phép để chào hỏi.
- Biết nhường nhịn bạn giúp đỡ lẫn nhau.
- Biết giữ vệ sinh lịch sự nơi công cộng, thông khạc nhổ bừa bãi, khi ho ngáp hắt hơi, hỉ mũi, phải lấy tay che miệng.
- Biết tôn trọng và quý mến mọi người.
- Biết yêu quý bảo vệ cảnh đẹp của thiên nhiên.
 - Biết yêu quý, bảo vệ vật nuôi cây trồng.
Như vậy, với kết quả mà tôi đã đạt được sau 1 năm tìm tòi và áp dụng các biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ, tôi nhận thấy việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thiết thực. Mỗi đứa trẻ có những yếu tố cá nhân khác nhau và sự ảnh hưởng của các quan hệ xã hội cũng như hoàn cảnh sống, môi trường trải nghiệm khác nhau nên giáo viên cần có những hình thức, biện pháp linh hoạt, hợp lý dựa trên quan điểm then chốt của giáo dục mầm non là “Lấy trẻ làm trung tâm” và tận dụng các đ

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_day_tre_ve_sinh_ca_nhan_va_thoi_quen_v.docx
Giáo Án Liên Quan