Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuôi
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuôi “
I. Đặt vấn đề :
1 Cơ sở lý luận
Như chúng ta đã biết Học để cùng chung sống là một trong những vấn đề then chốt của giáo dục thế giới .Chính vì vậy mà vào đầu thập kỉ 90, các tổ chức Liên Hiệp Quốc như WHO (Tổ chức y tế thế giới), UNICEF ( Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên hiệp quốc), UNESCO ( Tổ chức giáo dục , khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc) đã chung sức xây dựng chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em. “ Bởi lẽ những thử thách mà trẻ em và thanh niên đang phải đối mặt là rất nhiều và đòi hỏi cao hơn là những kỹ năng đọc, viết, tính toán tốt nhất”.
Ở Việt nam, từ năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Trong các mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non (ban hành kèm theo thông tư số 17/2009/TT- BGD&ĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009) có mục tiêu giáo dục phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội. Để thực hiện mục tiêu trên, nội dung quan trọng cần đưa vào giáo dục trẻ là dạy một số kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Về phía các bậc cha mẹ trẻ: cha mẹ trẻ em luôn quan tâm đến việc làm sao để kích thích tính tích cực học tập của trẻ. Cha mẹ nào cũng muốn con mình được tham gia và trải nghiệm vào các hoạt động vui chơi hay học tập tích cực để từ đó trẻ lĩnh hội được các kinh nghiệm sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin và sẵn sàng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống. Đặc biệt, khi trẻ chuẩn bị vào lớp một, các bậc phụ huynh lại luôn lo lắng liệu rằng con mình có đủ sức khỏe và khả năng để theo học thật tốt cùng các bạn ở trường tiểu học hay không.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuôi “ I. Đặt vấn đề : 1 Cơ sở lý luận Như chúng ta đã biết Học để cùng chung sống là một trong những vấn đề then chốt của giáo dục thế giới .Chính vì vậy mà vào đầu thập kỉ 90, các tổ chức Liên Hiệp Quốc như WHO (Tổ chức y tế thế giới), UNICEF ( Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên hiệp quốc), UNESCO ( Tổ chức giáo dục , khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc) đã chung sức xây dựng chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em. “ Bởi lẽ những thử thách mà trẻ em và thanh niên đang phải đối mặt là rất nhiều và đòi hỏi cao hơn là những kỹ năng đọc, viết, tính toán tốt nhất”. Ở Việt nam, từ năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Trong các mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non (ban hành kèm theo thông tư số 17/2009/TT- BGD&ĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009) có mục tiêu giáo dục phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội. Để thực hiện mục tiêu trên, nội dung quan trọng cần đưa vào giáo dục trẻ là dạy một số kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Về phía các bậc cha mẹ trẻ: cha mẹ trẻ em luôn quan tâm đến việc làm sao để kích thích tính tích cực học tập của trẻ. Cha mẹ nào cũng muốn con mình được tham gia và trải nghiệm vào các hoạt động vui chơi hay học tập tích cực để từ đó trẻ lĩnh hội được các kinh nghiệm sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin và sẵn sàng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống. Đặc biệt, khi trẻ chuẩn bị vào lớp một, các bậc phụ huynh lại luôn lo lắng liệu rằng con mình có đủ sức khỏe và khả năng để theo học thật tốt cùng các bạn ở trường tiểu học hay không. Đối với giáo viên mầm non: GV thường lo lắng đối với những trẻ có một số vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những năm tháng đầu tiên trẻ đến trường. Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy. Vì vậy, giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp trẻ có được những KNS cơ bản ở trường mầm non giúp trẻ ổn định nề nếp nhóm lớp và có các thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày. 2. Cơ sở thực tiễn: Đối với trẻ mầm non 5 tuổi: Đây là giai đoạn trẻ học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân cách, đồng thời trẻ rất dễ bộc lộ cảm xúc, chưa có nhiều kỹ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc, vốn hiểu biết về thế giới xung quanh còn nhiều hạn chế do đó nhiều trẻ còn thụ động, không biết ứng phó với các tình huống nguy cấp, không biết tự bảo vệ mình trước nguy hiểm hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác.Do đó, việc dạy KNS cho trẻ là rất cần thiết bởi KNS thúc đẩy sự phát triển cá nhân trẻ, giúp trẻ có nhận thức đúng và hành vi ứng xử phù hợp ngay từ độ tuổi mầm non. Một tập thể trẻ có KNS tốt sẽ tạo nên môi trường sống ấm áp, hoà thuận, vui vẻ và phát triển ở nhóm lớp. Vì vậy tôi chọn đề tài một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuôi ở trường mầm non. II. Giải quyết vấn đề. 1 . Thuận lợi : Trường, lớp có không gian hoạt động an toàn cho trẻ, có đủ đồ dùng đồ chơi cần thiết trong các hoạt động giáo dục. Trẻ khoẻ mạnh và rất hào hứng , sôi nổi với các hoạt động do cô tổ chức, lĩnh hội nhanh các kiến thức cô giáo truyền đạt. Phụ huynh luôn quan tâm đến trẻ, tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường, của nhóm lớp. Giáo viên có trình độ chuyên môn, được tập huấn về nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non do Phòng giáo dục tổ chức và qua các buổi bồi dưỡng chuyên môn tại trường, tích cực nghiên cứu tài liệu về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non. 2. Khó khăn : Trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều do là lớp ghép 2 độ tuổi, do đó cùng một thời gian và biện pháp dạy trẻ các nội dung KNS nhưng kết quả trên trẻ đạt chưa tương đương với nhau. Một số trẻ nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt động ,một số trẻ lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào sự hướng dẫn của cô, kỹ năng sống của trẻ còn nhiều hạn chế. Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều, 100% phụ huynh là nông thôn . Một số phụ huynh đi làm ăn xa để các cháu ở nhà với các anh chị hoặc ông bà đã già, thời gian phụ huynh quan tâm đến trẻ còn ít, không dành thời gian trò chuyện để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của trẻ để giáo dục trẻ mà chỉ biết chiều theo mọi đòi hỏi của trẻ, trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu trẻ cần. Ví dụ: trẻ chỉ cần đòi mua đồ dùng nào đó là được đáp ứng ngay mà không biết điều đó có phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của bố mẹ hay không, khi được món đồ chơi đó trẻ cũng không biết cảm ơn bố mẹ.Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho trẻ thiếu KNS. Mặc dù nhà trường đã hỗ trợ và đầu tư, tuy nhiên kinh phí trong việc tổ chức một số các hoạt động ngoại khoá vào các ngày lễ, ngày tết nhằm dạy KNS cho trẻ còn hạn chế và chưa thường xuyên. 3. Biện pháp thực hiện : 3.1. Nâng cao nhận thức về việc dạy trẻ kỹ năng sống cho giáo viên mầm non. Trong những năm học trước, giáo viên chủ nhiệm các lớp thường tự tìm hiểu các kiến thức, phương pháp giáo dục kỹ năng cho trẻ một cách riêng lẻ nên có một số giáo viên chưa tích cực tự bồi dưỡng do đó hiểu chưa sâu về sự cần thiết phải dạy kỹ năng sống cho trẻ, chưa biết cần phải có phương pháp nào để kết quả dạy là tốt nhất. Do đó, đầu năm học tôi đề nghị với Ban giám hiệu nhà trường mua bổ xung 1 số tài liệu có nội dung giáo dục KNS cho trẻ mầm non cho tất cả giáo viên( Vd: tài liệu “ Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non”.). Đồng thời, tôi đã tổ chức thảo luận với giáo viên trong tổ,trong trường về thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc dạy trẻ các KNS cần thiết, qua đó giúp giáo viên hiểu được rằng chương trình học thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức trong suốt năm học, và thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một cách cân bằng, giáo viên biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội của trẻ. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung vào việc học một cách tốt nhất. 3.2. Xác định những KNS cơ bản cần dạy trẻ Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ ở lớp mình phụ trách. Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ cần được giáo dục chính là những KNS như: - Nhóm kỹ năng tự tin: Nhận biết , thể hiện cảm xúc, suy nghĩ cá nhân với mọi người. - Nhóm kỹ năng hợp tác: Kỹ năng tổ chức hoạt động, làm việc theo nhóm,kỹ năng ra quyết định, giải quyết vấn đề. - Nhóm kỹ năng nhận thức về bản thân: Kỹ năng tự bảo vệ trước những tình huống nguy hiểm, nhận biết về giá trị bản thân. - Nhóm kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội: kỹ năng ứng xử phù hợp với người xung quanh, kỹ năng hợp tác, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ, kỹ năng tuân thủ các quy tắc xã hội, giao tiếp lịch sự và lễ phép, kỹ năng tự phục vụ. - Nhóm kỹ năng học tập : Ý thức trách nhiệm, Kỹ năng thiết lập và thực hiện mục tiêu. Để xác định được những kỹ năng này tôi cần đọc, nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên mầm non và các tài liệu khác về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ do các nhà xuất bản có uy tín phát hành. 3.3. Cụ thể hóa những biện pháp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. 3.3.1. Hình thành kỹ năng tự tin: - Theo Dale - một nhà văn, nhà thuyết trình nổi tiếng của Mỹ thì “Nếu bạn thật sự tin tưởng chính mình, nhất định sẽ đạt được ước mơ, bạn có thể bước trên đường bằng phẳng mà người khác cũng sẽ cần bạn hơn”. Vì vậy, một trong những kỹ năng đầu tiên mà tôi cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác,trẻ tự tin làm theo ý tưởng, tự tin bày tỏ cảm xúc của mình với người khác mà không e ngại. KNS này giúp trẻ nhanh chóng thực hiện được mong muốn của mình đồng thời có khả năng hòa nhập với cộng đồng. - Những biện pháp tôi sử dụng để phát triển sự tự tin ở trẻ là: + Luôn tôn trọng, giúp trẻ xây dựng hình tượng tốt của chính mình: Từ đặc điểm sự tự tin của trẻ bắt nguồn từ lòng tự tôn, một trẻ không có sự tự tôn thì không thể có sự tự tin. Do đó , tôi luôn tôn trọng trẻ, cổ vũ và khích lệ những khả năng của trẻ mọi lúc mọi nơi một cách kịp thời. Ví dụ: khi trẻ xung phong lên hát trước cả lớp, tôi sẽ khen ngợi là trẻ rất giỏi, rất mạnh dạnđể lần sau trẻ muốn và không e ngại khi biểu diễn trước đám đông.. +Nói cho trẻ biết “con có thể làm được”: Tôi dùng lời động viên trẻ một cách chân thành, không quá lời khen, nghĩ một đường nói một nẻo. Và trong mọi việc tôi luôn nói “ con có thể làm được” để dần củng cố niềm tin vào bản thân cho trẻ. Ví dụ:Trong giờ thể dục, một sốtrẻ sợ độ cao nên không dám trèo lên xuống thang, tôi không ép buộc trẻ phải thực hiện hoạt động đó ngay lập tức mà sẽ khuyến khích trẻ với lời động viên “ con có thể trèo được”để trẻ tự tin thể hiện bản thân mình trước các bạn. +Bồi dưỡng tài năng đặc biệt cho trẻ : Tài năng đặc biệt cũng có thể làm tăng thêm sự tự tin cho trẻ. Tôi căn cứ vào sở thích, niềm đam mê của trẻ để bồi đắp sở trường đặc biệt của trẻ. Ví dụ: trẻ có khả năng vẽ đẹp tôi sẽ tạo nhiều cơ hội ở lớp để trẻ được thể hiện sở trường của mình như vẽ trong các góc, trang trí lớp cùng cô... Đồng thời trao đổi với phụ huynh cho trẻ tham gia các lớp vẽ ngoại khóa để nâng cao tài năng cho trẻ. +Cho phép trẻ mắc sai lầm: Một đứa trẻ nếu không phạm sai lầm sẽ không thể trưởng thành. Cho nên, khi trẻ mắc sai lầm tôi luôn lưu tâm đến sai lầm đó để trao đổi thân thiện, cởi mở với trẻ giúp trẻ hiểu rằng ai cũng có thể mắc sai lầm nhưng điều quan trọng nhất là biết sửa chữa và không bao giờ mắc phải sai lầm đó nữa. Đồng thời không phê bình hay chê bai trẻ quá thẳng thắn sẽ làm trẻ mất hứng thú và tự ti về bản thân mình. Ví dụ: khi trẻ tranh giành đồ chơi với bạn, tôi sẽ hỏi trẻ xem vì sao lại như vậy, tôi bày ra các trò chơi với món đồ chơi đó để 2 trẻ cùng được chơi với nhau. Sau đó hỏi 2 trẻ xem chơi cùng nhau như vậy có vui hơn là tranh giành nhau không và giáo dục trẻ lần sau nên chơi đoàn kết với bạn bè ... + Quy định hành vi : Đầu năm học tôi đề ra 1 số quy định phù hợp với lớp học nhằm đạt được mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ, tạo thói quen nề nếp tốt cho trẻ. Yêu cầu trẻ trong lớp thực hiện theo các nội quy đó để tạo tính chủ động và làm việc có kế hoạch cho trẻ trong lớp Ví dụ : Đến giờ thể dục sáng, tôi hỏi trẻ các con nhìn lên lịch xem hoạt động đầu tiên trong ngày hôm nay là gì? Và cho trẻ cùng chuẩn bị hoạt động đó với cô... + Tổ chức một số hoạt động khác để phát triển sự tự tin của trẻ : Tôi có thể trò chuyện với trẻ với những câu hỏi như tự tin là gì? Khi con tự tin con cảm thấy như thế nào? Khi không tự tin con cảm thấy ra sao? Hoặc sử dụng những câu hỏi gắn với thực tế của trẻ như “ con hãy kể những việc con muốn tự làm, Con học cách làm này như thế nào? Hãy kể những việc con tự làm, Khi tự làm con cảm thấy như thế nào?”. Qua hoạt động trò chuyện đó giúp trẻ hiểu rằng khi trẻ tự tin là khi trẻ mạnh dạn nói , làm, thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của mình với mọi người. Nếu trẻ tự tin ở mình thì kết quả hoạt động của trẻ sẽ đạt tốt hơn. Tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm: để trẻ tự làm mọi việc cho bản thân mình càng nhiều càng tốt( Vd: tự lấy đồ dùng học tập, hoặc dạy trẻ cách nhờ 1 người bạn khác giúp đỡ mình 1 việc gì đó..) 3.3.2. Hình thành kỹ năng hợp tác: - Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu “ Một cây làm chẳng nên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” Vì vậy việc giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ mầm non là rất cần thiết. Bởi trẻ mầm non còn nhỏ, có nhiều việc không thể tự làm được nếu không có người khác giúp đỡ. Khi trẻ được bạn giúp đỡ và khi trẻ giúp đỡ được bạn trẻ sẽ nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Qua đó trẻ có niềm vui, có bạn bên cạnh để chia sẻ công việc, giúp phát triển kỹ năng và tình cảm xã hội của trẻ. - Để giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ chơi và làm việc theo nhóm với các trẻ khác trong tất cả các hoạt động. Ví dụ: Cho trẻ thảo luận theo tổ để cùng nhau nhận xét về đặc điểm của 1 đối tượng nào đó trong các hoạt động, tạo những cảm nhận giúp trẻ tôn trọng những quyền lợi của trẻ khác qua việc chia sẻ, hướng dẫn trẻ cư xử lịch sự với bạn khác. - Tổ chức 1 số hoạt động phát triển kỹ năng hợp tác như: + Thảo luận về sự hợp tác: Trò chuyện với trẻ có sử dụng câu hỏi như “Con và bạn đã cùng nhau làm những việc gì?Trò chơi nào con thích hơn khi có bạn cùng chơi? Tại sao con phải hợp tác với bạn, một mình con có làm được việc này không? Điều gì con cảm thấy vui khi hợp tác?....Qua việc trò chuyện giúp trẻ hiểu hợp tác là có nhiều người cùng thực hiện 1 việc gì đó, cùng vui thích khi làm việc. + Trò chơi “ đôi bạn hợp tác”: Cho trẻ tìm thêm 1 bạn để ghép đôi với nhau. Các đôi ngồi quay mặt vào nhau, nắm lấy tay nhau, cùng ngồi xuống hoặc cùng đứng lên mà không buông tay nhau ra. + Trò chơi “ Những chiếc tháp tập thể”: Yêu cầu trẻ ngồi xung quanh 1 cái bàn và đưa cho trẻ những khối đồ chơi có hình dáng và kích thước khác nhau. Nhiệm cụ của trẻ là xếp những khối đó thành 1 cái tháp càng cao càng tốt. + Trưng bày các hình ảnh sưu tập: có nội dung mọi người cùng chơi, làm việc với nhau và cho trẻ thảo luận nội dung của các hình ảnh đó. + Cho trẻ tập đóng kịch: theo nội dung các câu chuyện trong chương trình giáo dục mầm non: Đóng kịch “Nhổ củ cải”( có các cảnh mọi người hợp tác với nhau để nhổ được củ cải)Đóng kịch theo bài thơ “ gấu qua cầu”, theo truyện “đôi bạn tốt” 3.3.3. Hình thành kỹ năng tự nhận thức bản thân : - Kỹ năng tự nhận thức là trẻ tự nhận diện về bản thân, phát triển quan niệm tích cực về bản thân. Trẻ nhận thức sự khác nhau giữa các trẻ, nhận thức mỗi cá nhân có điểm riêng biệt cần được tôn trọng, phát triển những suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ. Kỹ năng tự nhận thức giúp trẻ hiểu đúng mình là ai? Trẻ yêu gì? Điểm mạnh và sở thích của mình là gì để kết nối chúng vào những lĩnh vực liên quan và phát huy chúng một cách tối đa. Trẻ nhận ra điểm yếu của mình cũng giúp trẻ dự đoán được những khó khăn trong quá trình hoạt động từ đó tìm ra cách khắc phục khó khăn đó. - Để hình thành kỹ năng tự nhận thức tôi đã thực hiện 1 số biện pháp sau: +Trò chuyện giúp trẻ tìm hiểu về bản thân thông qua 1 số câu hỏi như: Con là ai? Con thấy mình có những tính tốt đẹp nào? Con thích gì và không thích gì? Con có mong muốn gì? Con sẽ làm gì để đạt được mong muốn đó?con có những điểm gì khác với bạn?..... + Chấp nhận sự đa dạng của trẻ và giúp trẻ chấp nhận lẫn nhau: Tôi luôn tôn trọng cá tính của từng cá nhân trẻ trong lớp, đồng thời có biện pháp giáo dục để hạn chế điểm yếu, phát huy điểm mạnh của trẻ. Tôi nhận thấy rằng khi tôi tôn trọng tất cả các trẻ thì trẻ trong lớp sẽ noi gương theo cô, biết tôn trọng các bạn lớp mình. Ví dụ: Trong lớp có một cháu bị khuyết tật, trẻ trong lớp không chơi cùng với bạn đó, tôi sẽ trò chuyện để các cháu thấy rằng bạn đó có rất nhiều điểm tốt như ngoan, chăm đi học, bạn hát haycác con cần quan tâm giúp đỡ và chia sẻ với bạn. Đồng thời, bản thân tôi cũng luôn đối xử công bằng , yêu thương , tôn trọng trẻ đó để trẻ trong lớp noi theo. + Đặt yêu cầu cao cho các trẻ và khích lệ trẻ hoạt động để đạt mục tiêu đó: Tôi luôn đặt yêu cầu cao cho tất cả các trẻ trong lớp, Với sự hướng dẫn của tôi, từng trẻ đã có khả năng tham gia hầu hết các hoạt động . Trong bất kì hoạt động nào tôi cũng khuyến khích để kích thích tính tò mò khám phá của trẻ chứ không ép buộc mọi trẻ phải tham gia. Tôi gợi ý để trẻ thử thách với chính mình. Thay vì cạnh tranh với trẻ khác, tôi khuyến khích trẻ cạnh tranh với chính mình. Ví dụ: Nhảy xa sử dụng thước dây, xếp hình bằng đồng hồ bấm giâylần sau tốt hơn lần trước + Giúp trẻ đạt được thành công nhất định trong lớp học: Thành công là một trong những yêu tố quan trọng tác động đến sự phát triển ý thức bản thân. Trẻ ở lứa tuổi này cần trải qua thành công( theo khả năng của trẻ) để trẻ có cảm giác tự tin rằng mình làm được những điều tốt. Thực tế , có một số trẻ sợ thất bại đến nỗi không dám thử một hoạt động nào đó, lúc này tôi sẽ giúp trẻ đạt được thành công trong việc đó từng bước một đồng thời khen ngợi khả năng đó để trẻ thêm tự tin vào mình. Trẻ sẽ tự hào về thành công của mình nếu cô giáo cho trẻ thấy rằng cô tự hào về trẻ. + Tổ chức một số hoạt động, trò chơi phát triển kỹ năng tự nhận thức cho trẻ: Ví dụ: Hoạt động “ soi gương”: Giúp trẻ tự quan sát, cảm nhận về hình dáng của mình bằng cách cho trẻ tự ngắm mình trong gương với các động tác như làm điệu, đội mũ, mặc quần áo. . lúc đó tôi có thể hỏi trẻ: Con thấy ai trong gương, người trong gương có dáng yêu không? Hoạt động “Hái hoa dân chủ”:Trẻ chọn 1 bông hoa theo ý thích trong đó có nội dung “ Hãy nói cho chúng tôi về.”( có thể là gia đình, đồ chơi bạn thích, món ăn bạn thích) và tôi sẽ đọc to câu hỏi đó cho cả lớp nghe, trẻ hái hoa sẽ nói về điều đó theo hiểu biết của mình. Hoạt động “ Tôi có thể vẽ”:Tôi tạo ra 1 tờ giấy lớn và dán lên tường. Tôi cổ vũ trẻ vẽ hay dán bất cứ thứ gì trẻ có thể làm được vào đó để trẻ cả lớp tạo thành bức tranh tổng hợp lớn. Với hoạt động này trẻ sẽ thấy được sự phát triển tiến bộ của bản thân qua từng giai đoạn. Hoạt động “ có điều gì trong một cái tên”: Trẻ nhỏ thường rất tự hào về cái tên của mình, do đó tất cả hoạt động nào liên quan đến cái tên của trẻ đều làm trẻ hứng thú. Hầu hết bố mẹ đặt tên cho con đều có 1 ý nghĩa, yêu cầu trẻ hỏi bố mẹ về điều này, sau đó tôi phát cho mỗi trẻ 1 tờ giấy và bút màu để trẻ có thể vẽ lại điều đó vào bức tranh và trang trí cho tranh của mình. Khi đã thực hiện xong có thể cho trẻ diễn tả lại ý nghĩa của bức tranh mà trẻ đã vẽ. 3.3.4. Hình thành kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội: - Trẻ mầm non cần phải học rất nhiều trong những năm đầu đời : học cách làm chủ ngôn ngữ, học cách nhận biết và đối phó với cảm xúc của mình cũng như của người khác, học cách tin vào mình và can đảm để khám phá thế giới rộng lớn xung quanh. Nếu trẻ không đạt được năng lực xã hội tối thiểu vào khoảng 6 tuổi thì trẻ có thể gặp khó khăn trong suốt cuộc sống sau này - Phát triển kỹ năng này là một nhiệm vụ phức tạp đối với trẻ. Yêu cầu trẻ biết ứng xử theo quy tắc xã hội, biết tạo các mối quan hệ cũng như tương tác với cảm giác thoải mái với những người khác đồng thời biết điều chỉnh hành vi phù hợp với hoàn cảnh. Để giáo dục tốt cho trẻ nội dung này tôi thực hiện 1 số biện pháp sau: + Dạy trẻ học cách kiểm soát xung đột và điều chỉnh hành vi của mình: Tôi làm cầu nối giúp trẻ biểu lộ cảm xúc của mình và biết lắng nghe ý kiến của người khác. Nếu trẻ bất hòa với bạn khác tôi thường chỉ cho trẻ thấy trẻ chưa đúng ở điểm nào, điểm nào cần khắc phục và điểm tốt nào cần phát huy. Cho trẻ thấy những mối bất hòa thường dẫn đến những cảm xúc tiêu cực như tức giận, sợ hãi, còn nếu chơi đoàn kết với bạn sẽ tạo nên nhưng tình cảm tốt đẹp và tinh thần thoải mái, vui vẻ Ví dụ: Có 2 trẻ đánh nhau, điều đầu tiên cần làm là hỏi hai trẻ lý do vì sao lại như vậy để từng trẻ có cơ hội thể hiện suy nghĩ bằng lời nói về sự việc đó. Sau đó giải thích cho trẻ hiểu bạn nào đúng, bạn nào chưa đúng. Giáo dục trẻ lần sau chơi đoàn kết với bạn hơn. + Dạy trẻ cách giải quyết vấn đề: Mỗi tình huống khó khăn mà trẻ gặp phải sẽ có tác dụng giúp trẻ lĩnh hội được kinh nghiệm sống thông qua việc tìm cách giải quyết vấn đề đó. C
File đính kèm:
- Mot_so_bien_phap_giao_duc_ky_nang_song_cho_tre_mau_giao_5_6_tuoi.doc