Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi thích nghi tốt với môi trường giáo dục tại trường Mầm non Trực Mỹ
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA BIỆN PHÁP
Trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình, là tương lai của xã hội. Thông
điệp “Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai” đã trở thành phương châm hành
động của Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã dạy: “Giáo viên mầm non là
người mẹ thứ hai của trẻ”
Để làm được điều này đòi hỏi mỗi người giáo viên phải có tâm với nghề,
có trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đặc biệt là với giáo viên dạy trẻ ở độ tuổi
nhà trẻ, lứa tuổi mà “Chân đi chưa vững- miệng nói bi bô”, độ tuổi vẫn còn
đang được ôm ấp, bao bọc, cần những lời ru ầu ơ của bà của mẹ.
Hàng năm, cứ vào mỗi mùa thu, là hàng triệu trẻ em trên khắp cả nước
lại được chào đón niềm vui tựu trường, được quay trở lại với lớp học, thầy cô
và bạn bè. Trong số hàng triệu trẻ em ấy, có rất nhiều bé lần đầu tiên rời xa cha
mẹ, bước đến một cánh cổng mới, môi trường mới. Các con, những đứa trẻ lần
đầu tiên bước vào môi trường giáo dục mới nên tất nhiên không thể tránh khỏi
cảm giác xa lạ, bỡ ngỡ với nơi không hề quen thuộc như cuộc sống hàng ngày
của mình, trẻ còn rất non nớt và có những đặc điểm tâm sinh lý riêng biệt so
với tất cả các lứa tuổi khác trong trường mầm non, trẻ đang quen ở nhà đang
trong vòng tay ôm ấp của gia đình, trẻ chưa có thói quen và nề nếp ăn ngủ, vệ
sinh, tham gia hoạt động theo giờ giấc của trường, của lớp .
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN TRỰC NINH TRƯỜNG MẦM NON TRỰC MỸ BÁO CÁO Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi thích nghi tốt với môi trường giáo dục tại trường mầm non Trực Mỹ Lĩnh vực: Chăm sóc giáo dục (03)/Mầm non Tác giả: Đỗ Thị Mai Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm mầm non Chức vụ: Giáo viên Nơi công tác: Trường mầm non Trực Mỹ, huyện Trực Ninh Tỉnh Nam Định Trực Ninh, tháng 10 năm 2022 2 MỤC LỤC THÔNG TIN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP ...................................................................................................... 1 BÁO CÁO BIỆN PHÁP .................................................................................................................................................. 2 I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA BIỆN PHÁP ................................................................... 2 II. MÔ TẢ BIỆN PHÁP ................................................................................................................................................... 3 1. Mô tả thực trạng trước khi tạo ra biện pháp .................................................................................. 3 2. Mô tả kết quả sau khi có biện pháp ........................................................................................................ 5 Biện pháp 1: Tạo ấn tượng tốt, giúp trẻ luôn được an toàn về tinh thần khi đến trường mầm non .............................................................................................................................................. 5 Biện pháp 2: Xây dựng môi trường giáo dục đẹp, an toàn, thân thiện và gần gũi với trẻ ................................................................................................................................................................ 7 Biện pháp 3. Tập cho trẻ quen với nề nếp, sinh hoạt trong các hoạt động .........13 Biện pháp 4: Tạo hứng thú, thay đổi cách thức tổ chức các hoạt động giúp trẻ tích cực tham gia và các hoạt động.............................................................................................17 Biện pháp 5. Tuyên truyền, phối kết hợp với cha mẹ trẻ trong việc chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho trẻ đến trường lớp ....................................................................................22 III. HIỆU QUẢ ĐEM LẠI: .......................................................................................................................................25 1. Hiệu quả về kinh tế ...............................................................................................................................................25 2. Hiệu quả về mặt xã hội: ...................................................................................................................................25 - Giá trị làm lợi cho môi trường ..............................................................................................................25 - Giá trị làm lợi an toàn lao động ...........................................................................................................26 - Giá trị làm lợi khác ...........................................................................................................................................26 IV. CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN QUYỀN...............28 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................................................................30 THÔNG TIN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP 1. Tên biện pháp: “Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi thích nghi tốt với môi trường giáo dục tại trường mầm non Trực Mỹ” 2. Lĩnh vực: Chăm sóc giáo dục (03)/ Mầm non 3. Thời gian áp dụng biện pháp: Từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 05 năm 2022 4. Tác giả Họ và tên: Đỗ Thị Mai Năm sinh: 1986 Nơi thường trú: Xã Trực Mỹ - huyện Trực Ninh - tỉnh Nam Định Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm Mầm non Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: Trường mầm non Trực Mỹ Điện thoại: 0396647198 5. Đơn vị áp dụng biện pháp Tên đơn vị: Trường mầm non Trực Mỹ, huyện Trực Ninh Địa chỉ: Xã Trực Mỹ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định Điện thoại: 02283.947.400 Tên đơn vị: Trường mầm non Trực Chính, huyện Trực Ninh Địa chỉ: Xã Trực Chính, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định Tên đơn vị: Trường mầm non Trực Đại, huyện Trực Ninh Địa chỉ: Xã Trực Đại, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định Tên đơn vị: Trường mầm non Trực Hưng, huyện Trực Ninh Địa chỉ: Xã Trực Hưng, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định Tên đơn vị: Trường mầm non Trực Tuấn, huyện Trực Ninh Địa chỉ: Xã Trực Tuấn, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định 2 BÁO CÁO BIỆN PHÁP Giúp trẻ 24-36 tháng tuối thích nghi tốt với môi trường giáo dục tại trường mầm non Trực Mỹ, huyện Trực Ninh I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA BIỆN PHÁP Trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình, là tương lai của xã hội. Thông điệp “Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai” đã trở thành phương châm hành động của Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới. Chủ Tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã dạy: “Giáo viên mầm non là người mẹ thứ hai của trẻ” Để làm được điều này đòi hỏi mỗi người giáo viên phải có tâm với nghề, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đặc biệt là với giáo viên dạy trẻ ở độ tuổi nhà trẻ, lứa tuổi mà “Chân đi chưa vững- miệng nói bi bô”, độ tuổi vẫn còn đang được ôm ấp, bao bọc, cần những lời ru ầu ơ của bà của mẹ. Hàng năm, cứ vào mỗi mùa thu, là hàng triệu trẻ em trên khắp cả nước lại được chào đón niềm vui tựu trường, được quay trở lại với lớp học, thầy cô và bạn bè. Trong số hàng triệu trẻ em ấy, có rất nhiều bé lần đầu tiên rời xa cha mẹ, bước đến một cánh cổng mới, môi trường mới. Các con, những đứa trẻ lần đầu tiên bước vào môi trường giáo dục mới nên tất nhiên không thể tránh khỏi cảm giác xa lạ, bỡ ngỡ với nơi không hề quen thuộc như cuộc sống hàng ngày của mình, trẻ còn rất non nớt và có những đặc điểm tâm sinh lý riêng biệt so với tất cả các lứa tuổi khác trong trường mầm non, trẻ đang quen ở nhà đang trong vòng tay ôm ấp của gia đình, trẻ chưa có thói quen và nề nếp ăn ngủ, vệ sinh, tham gia hoạt động theo giờ giấc của trường, của lớp ... Đặc biệt, năm học 2021-2022 trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19 và các dịch bệnh khác, trẻ liên tục phải nghỉ học trong thời gian dài, khi trở lại trường mầm non, nền nếp, thói quen được hình thành tại trường đã thay đổi, cô giáo gặp nhiều khó khăn trong việc giúp trẻ việc thích nghi với môi trường tại trường mầm non khi trẻ đi học trở lại. Một số phụ huynh chưa dám tin tưởng để con lại một mình ở lớp, đắn đo băn khoăn không biết con mình có đi học được hay không, lo sợ con sẽ khóc nhiều khi xa bố mẹ, sợ con sẽ không quen với chế độ sinh hoạt ở trường mầm non. Do đó việc giúp trẻ thích nghi với môi trường giáo dục ở trường mầm non là một vấn đề vô cùng quan trọng, là cơ sở tốt để giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người; trẻ cần được quan tâm nhiều hơn về xúc cảm, tình cảm nhất là trong những ngày đầu đi học. Nếu không xử lý khéo léo, cô giáo có thể vô tình khiến trẻ sợ hãi không muốn đến trường lớp. 3 Làm sao để phụ huynh yên tâm, vui vẻ khi trao con cho các cô? Làm thế nào để trẻ thích học, thích đến trường? Làm sao để trẻ thích nghi với trường lớp mầm non một cách sớm nhất? Làm thế nào để trẻ tiếp nhận được những nề nếp thói quen tốt: Đi học chuyên cần, ngoan ngoãn, lễ phép, biết ăn, ngủ, vệ sinh nề nếp, biết vui chơi học hành hòa nhập với cô giáo và các bạn, sớm thích nghi với môi trường mới lạ. Làm thế nào để với trẻ mỗi ngày đến trường là một ngày vui? Và đây chính là yếu tố thúc đẩy tôi lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi thích nghi tốt với môi trường giáo dục” tại trường mầm non Trực Mỹ, huyện Trực Ninh II. MÔ TẢ BIỆN PHÁP 1. Mô tả thực trạng trước khi tạo ra biện pháp Trường mầm non Trực Mỹ đạt kiểm định chất lượng giáo dục cấp độ 3, đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2, đạt chuẩn Xanh-Sạch-Đẹp-An toàn. Trong những năm qua, nhà trường luôn chú trọng xây dựng đội ngũ giáo viên đảm bảo chất lượng, xây dựng môi trường giáo dục theo định hướng “lấy trẻ làm trung tâm”. Đây là điều kiện cũng như cơ hội rất tốt cho trẻ em đến trường; các em vừa được vui chơi thỏa thích, vừa được học tập trong môi trường an toàn, lành mạnh và thân thiện. Năm học 2021 - 2022 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công phụ trách nhóm/lớp nhà trẻ 24-36 tháng tuổi với số lượng là 20 trẻ. Trong đó có 12 trẻ gái và 8 trẻ trai. Nhóm/lớp do tôi phụ trách có 2 giáo viên, đều đạt chuẩn nghề nghiệp trở lên. Bản thân tôi là một giáo viên trẻ yêu nghề, mến trẻ, luôn nhiệt tình tâm huyết với nghề, ham học hỏi, trau dồi kiến thức, có trình độ nghiệp vụ, chuyên môn vững vàng; đặc biệt luôn mong muốn mọi trẻ đến trường lớp đều vui vẻ, thích nghi tốt với chế độ sinh hoạt và môi trường giáo dục tại trường mầm non, được tạo điều kiện tốt nhất để phát triển toàn diện. Nhiều cha mẹ trẻ rất nhiệt tình quan tâm tới việc học tập của các con. Quan tâm ủng hộ và phối kết hợp chặt chẽ với giáo viên trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ và thực hiện đề tài này bản thân tôi nhận thấy: một số cha mẹ trẻ chưa nhận thức đầy đủ cho trẻ đến trường mầm non học đúng độ tuổi, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển về thể chất và tinh thần cho trẻ, việc rèn nền nếp, thói quen, giúp trẻ thích nghi với môi trường giáo dục tại trường mầm non cũng khó khăn hơn khi trẻ bắt đầu đến trường ở độ tuổi mẫu giáo. Cha mẹ trẻ chủ yếu làm nghề công nhân, tiểu thương, bận nhiều công việc nên sự phối hợp cùng cô giáo rèn nề nếp cho trẻ ở nhà còn hạn chế. Một số phụ huynh còn băn khoăn, lo lắng khi trẻ bắt đầu đi học (Con có bị bạn xô ngã hay không? Con có bị cô giáo quát mắng hay phạt không? Con có ăn, ngủ tốt hay không?...); do đó thường bỏ lỡ giai đoạn tốt nhất cho trẻ đến 4 trường và thích nghi với môi trường tại trường mầm non một cách hiệu quả nhất. Trẻ nhà trẻ là độ tuổi còn non nớt, yếu đuối, đang sống trong môi trường gia đình, được ông bà, bố mẹ yêu thương chăm sóc. Khi đến trường là nơi hoàn toàn mới mẻ, xa lạ với trẻ, do đó trẻ thường có cảm giác thiếu an toàn, hay quấy khóc; một số trẻ có sức đề kháng yếu hay bị ốm vặt, chưa thích nghi được môi trường mới cũng như chưa hòa nhập được các hoạt động tại trường. Do đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi đang trong giai đoạn đang phát triển và hoàn thiện ngôn ngữ, khả năng giao tiếp và biểu đạt nhu cầu cá nhân của trẻ còn hạn chế; nhận thức và sự phát triển của trẻ không đồng đều giữa trẻ sinh đầu năm và cuối năm, do đó việc giúp trẻ thích nghi tốt với môi trường tại trường mầm non cũng gặp nhiều khó khăn hơn. Để có thông tin cụ thể về đặc điểm của từng cá nhân trẻ trong lớp, ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát tại nhóm lớp nhà trẻ tôi đang phụ trách, kết quả cụ thể: Bảng khảo sát đầu năm STT Nội dung khảo sát Đạt Chưa đạt Số trẻ TL% Số trẻ TL% 1 Trẻ vui vẻ, thích đến trường, lớp 10 50% 10 50% 2 Trẻ gần gũi với cô và các bạn 11 55% 9 45 % 3 Trẻ thích nghi với nền nếp, sinh hoạt ở trường mầm non 9 45% 11 55 % 4 Trẻ thích nghi với chế độ dinh dưỡng tại trường 12 60% 8 40% 5 Trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động 11 55% 9 45 % Từ thực trạng như trên, tôi đã mạnh chọn đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi thích nghi tốt với môi trường giáo dục” tại trường mầm non Trực Mỹ, huyện Trực Ninh. Trước khi có biện pháp, chưa có tác giả nào nghiên cứu, chia sẻ kinh nghiệm trong việc giúp trẻ 24-36 tháng tuổi thích nghi tốt với môi trường giáo 5 dục tại trường mầm non Trực Mỹ và một số trường mầm non trong địa bàn huyện Trực Ninh. 2. Mô tả kết quả sau khi có biện pháp Từ những thuận lợi khó khăn trên, căn cứ tình hình thực tế của địa phương, của lớp, để giúp trẻ có thể hòa nhập và thích nghi tốt với môi trường tại trường mầm non, được tiếp cận Chương trình giáo dục mầm non theo đúng độ tuổi, được phát triển toàn diện về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, kĩ năng xã hội; với chức năng, nhiệm vụ được giao, cá nhân tôi xác định rõ cần phải làm tốt công tác tham mưu, phối hợp, triển khai linh hoạt, sáng tạo, đồng bộ các biện pháp “Giúp trẻ 24-36 tháng tuổi thích nghi tốt với môi trường giáo dục” tại trường mầm non Trực Mỹ, huyện Trực Ninh. Biện pháp 1: Tạo ấn tượng tốt, giúp trẻ luôn được an toàn về tinh thần khi đến trường mầm non Giáo viên mầm non là người thầy, người cô đầu tiên và quan trọng của trẻ, là người có nhiệm vụ gieo hạt, uốn nắn những mầm xanh ngay từ những ngày đầu đến trường. Mỗi lời nói, hành động, cử chỉ của cô giáo có thể ảnh hưởng rất lớn đến suy nghĩ, hành vi và sự phát triển của trẻ. Để thực hiện được nhiệm vụ cao cả ấy, người giáo viên luôn phải nuôi dưỡng cảm xúc tích cực cho bản thân. Để có thể nuôi dưỡng cảm xúc tích cực, tôi thường xuyên, tăng cường rèn luyện tư duy/suy nghĩ tích cực trong công việc và trong cuộc sống, bởi khi giáo viên căng thẳng, áp lực, liệu trẻ có được thỏa mái, vui vẻ? Hay cảm xúc tiêu cực đó sẽ “lan truyền” tới chính trẻ của mình? Và lớp học có “hạnh phúc” hay không khi giáo viên trong tâm thế lo lắng, căng thẳng như vậy?. Để giải tỏa các cảm xúc tiêu cực, phát triển những cảm xúc tích cực, giáo viên cần giữ bình tĩnh, kiên nhẫn và có khả năng quản lý cảm xúc tốt, đó là tố chất không thể thiếu của người giáo viên mầm non, đặc biệt giáo viên nhà trẻ. Xây dựng hình ảnh người mẹ hiền thứ hai của trẻ, tận tâm, tận lực trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ; yêu thương, ân cần với trẻ, không cáu gắt, đánh mắng, trách phạt trẻ; đối xử công bằng với tất cả trẻ, tôn trọng sự khác biệt của mỗi cá nhân trẻ; luôn cởi mở, vui vẻ với trẻ, tích cực tìm hiểu, phát hiện khả năng và sự khác biệt của trẻ, giúp đỡ trẻ trong các tình huống cụ thể; thấu hiểu trẻ, nắm bắt được nhu cầu cá nhân của trẻ, trạng thái, diễn biến tâm lý tình cảm, nhận ra những thay đổi nhỏ của trẻ để giúp trẻ biết thể hiện tình cảm, thái độ của mình với mọi người xung quanh. Đồng thời, giáo viên cần tạo được niềm tin ở trẻ, gần gũi với trẻ, có lòng yêu nghề, tận tụy, tâm huyết, trên hết là có cả tâm lẫn đức. 6 Có thể nói trẻ đến trường mầm non cảm giác tâm lý đầu tiên đó là cảm giác an toàn, ở trẻ rất lo sợ, nhiều trẻ lo sợ và khóc, có trẻ lo sợ mà dẫn đến không nói gì im lặng cả ngày; có trẻ chỉ ôm một đồ chơi và ngồi một mình giữ chặt đồ chơi đó... Với vai trò là một giáo viên, một cô giáo trực tiếp chăm sóc trẻ tôi không muốn trẻ của tôi khóc, sợ hãi, tôi muốn trẻ được vui vẻ, thoải mái và có nhìn nhận cô giáo như một người thân. Nhưng với những đứa trẻ lần đầu tiên đến với môi trường mới với cô giáo lạ, bạn lạ thì làm sao trẻ có thể không có cảm giác bất an được. Để giúp trẻ có được cảm giác an toàn thì việc đầu tiên của cô giáo tạo ấn tượng tốt đồng nghĩa với việc xây dựng tình cảm yêu thương, tạo cảm giác an toàn về tinh thần cho trẻ. Để tạo cho trẻ ấn tượng tốt ngay từ lần đầu trẻ đến lớp. Khi đón trẻ vào nhóm/lớp tôi luôn đón trẻ nhẹ nhàng để trẻ thấy được cô giáo yêu quý mình nên mới đón mình như mẹ đón mình ở nhà và trò chuyện cởi mở ân cần với trẻ, khen ngợi trẻ để trẻ thấy vui vẻ vào lớp và có cảm giác an toàn khi ở với cô và các bạn. Ví dụ: Cô đón trẻ vào mỗi buổi sáng hãy dành cho trẻ một cái ôm để trẻ cảm thấy gần gũi với cô, dần hình thành thói quen thể hiện tình cảm giữa cô và trẻ, để trẻ cảm nhận mình được yêu thương. Hình ảnh cô giáo đón trẻ từ tay phụ huynh Thay vì ôm trẻ khiến trẻ bất ngờ và cảm thấy sợ hãi, tôi giao tiếp với trẻ một cách thân thiện qua ngôn ngữ, đặc biệt là ánh mắt, cử chỉ và lời nói. Tôi nhẹ nhàng chào hỏi và làm quen với trẻ bằng những thái độ ân cần và niềm nở, tôi giao tiếp với trẻ câu hỏi nhẹ nhàng đơn giản như: “Con tên là gì?”, “Con có muốn vào lớp để chơi cùng cô và các bạn không?” Sau khi nói chuyện với cô, trẻ sẽ bớt cảm giác bỡ ngỡ, sợ sệt và dần tò mò về môi trường mới. Tôi có thể để trẻ cùng mẹ quan sát các bạn trong lớp vui chơi và chú ý biểu hiện của trẻ. Một số bé sẽ thích thú ngay và theo cô vào lớp chơi cùng các bạn, nếu trẻ 7 vẫn còn cảm giác sợ sệt tôi lại gần trò chuyện cùng phụ huynh để hiểu thói quen, sở thích của trẻ cũng như tạo cảm giác gần gũi, thân thiết hơn. Khi trẻ thấy cô và mẹ thân nhau, nói chuyện vui vẻ với nhau trẻ sẽ dần dần gần gũi hơn với cô. Ngay từ đầu năm học, tôi khảo sát, tìm hiểu, nắm bắt thông tin của từng cá nhân trẻ trong nhóm, lớp để nắm bắt đặc điểm tâm, sinh lý, nhu cầu và hoàn cảnh của từng trẻ để có biện pháp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với từng cá nhân trẻ, đảm bảo an toàn cho trẻ khi đến lớp. Như một số trẻ có thể chất yếu ăn hay bị nôn ói, cô sẽ chú ý về định lượng khi cho trẻ ăn, hay có trẻ khi ngủ hay giật mình cô quan tâm tạo cảm giác an toàn, ôm ấp, vỗ về khi trẻ ngủ; hoặc một số trẻ có biểu hiện dị ứng với một số món ăn, mùi hương...cô quan tâm, chú ý hơn đến thực đơn hàng ngày của trẻ, cách bày trí các loại hoa, cây xanh tại góc thiên nhiên, nhóm, lớp... Khuyến khích, động viên trẻ nhút nhát, cô tham gia các hoạt động cùng trẻ, không để trẻ thấy mình bị bỏ rơi, cô dành thời gian ở cùng trẻ để trẻ cảm thấy cảm giác an toàn, cho trẻ biết rằng trẻ đang được yêu thương mà không phải là chỉ có một mình. Điều quan trọng hơn cả, tôi cần phải cho trẻ cảm nhận được ở trường, lớp như ở nhà, cô giáo như người mẹ thứ 2, từ đó trẻ sẽ có những ấn tượng, cảm giác an toàn và dễ dàng tiếp nhận, hòa hợp với môi trường mầm non, có khi chỉ dành cho trẻ những ánh nhìn khi trẻ vui đùa với bạn, một cái ôm khi trẻ nhớ mẹ, một cử chỉ vuốt tóc vỗ về nhẹ nhàng khi trẻ chơi một mình hay khi trẻ lẻ loi cũng đã làm cho các con cảm thấy ấm áp, yêu thương hơn và nở những nụ cười hạnh phúc. Và thật sự những lúc đó chính trẻ cũng lại mang niềm hạnh phúc đến cho cô giáo, tôi càng nhận ra rằng trao cho trẻ những cái ôm thật chặt rồi sẽ có lúc trẻ chạy tới ôm chầm lấy cô, trao cho trẻ niềm vui chúng ta sẽ nhận nụ cười và trao cho trẻ nụ cười chúng ta sẽ nhận tất cả tình yêu. Biện pháp 2: Xây dựng môi trường giáo dục đẹp, an toàn, thân thiện và gần gũi với trẻ Để có thể lôi cuốn và thu hút trẻ tích cực tới trường lớp, thì việc xây dựng môi trường giáo dục ngay tại lớp học có vai trò rất quan trọng, bởi lớp học chính là ngôi nhà thứ 2 của trẻ, là nơi trẻ gắn bó hàng ngày sau khi rời xa bố mẹ đến trường. Vì vậy tôi rất quan tâm, chú trong xây dựng môi trường tại lớp học đẹp, hấp dẫn, đa dạng, phong phú, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi.Môi trường tại lớp học phải tạo được cảm giác đầu tiên khi bước vào lớp là sự gần gũi thân thiện, đẹp mắt, trong ngôi nhà ấy phải an toàn sạch sẽ thoáng mát. Để có thể lôi cuốn và thu hút trẻ tích cực tới trường lớp, thì việc xây dựng môi trường giáo dục rất quan trọng. 8 Trẻ 24 - 36 tháng tuổi, trẻ được hoạt động dưới nhiều hình thức “Học bằng chơi, chơi mà học”, học ở mọi lúc mọi nơi, tư duy của trẻ là tư duy trực quan nên đồ dùng đồ chơi đẹp, hấp dẫn, bắt mắt sẽ thu hút được sự chú ý của trẻ. Vì vậy tôi trang trí lớp học đẹp mắt, lựa chọn đồ dùng đồ chơi cho trẻ hoạt động đa dạng với nhiều màu sắc sinh động và hình ảnh ngộ nghĩnh, gần gũi, quen thuộc với cuộc sống thực hàng ngày của trẻ. Tôi chú ý đến việc sắp xếp đồ dùng đồ chơi cho trẻ hoạt động hợp lý, đảm bảo trẻ dễ lấy, đồ dùng đồ chơi sạch sẽ- an toàn. Lứa tuổi nhà trẻ hoạt động chủ đạo vẫn là hoạt động với đồ vật nên tôi luôn chuẩn bị cho trẻ rất nhiều đồ chơi. Ngoài ra tôi còn tích cực sưu tầm các nguyên liệu sẵn có tại địa phương để tạo thành những đồ dùng đồ chơi cho trẻ hoạt động. 9 Hình ảnh sắp xếp, trang trí đồ dùng, đồ chơi trong lớp Ví dụ: Trẻ mới nhập lớp đang còn khóc vì nhớ bố mẹ, ông bà... tôi có thể bế cháu lại các góc
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_24_36_thang.pdf