Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động làm quen văn học cho trẻ 4-5 tuổi
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là một phần tất yếu không thể thiếu trong
cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta. Ngôn ngữ chính là cầu nối giao tiếp giữa
con người với con người, đồng thời là phương tiện cho việc dạy và học. Ngôn
ngữ nói, đọc, viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nhân cách
của con người xã hội nói chung, của trẻ mầm non nói riêng. Ngôn ngữ phát triển
mạch lạc sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt từ đó hình thành và phát triển
nhân cách toàn diện cho trẻ.
Tôi nhận thấy rằng, lứa tuổi 4-5 tuổi là thời kỳ phát triển ngôn ngữ tốt
nhất. Là giai đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho khả năng lĩnh hội ngôn
ngữ và các kỹ năng nghe, nói, làm quen với đọc, viết.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN NGHĨA HƢNG TRƢỜNG MẦM NON THỊ TRẤN RẠNG ĐÔNG BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VĂN HỌC CHO TRẺ MẪU GIÁO 4-5 TUỔI” Tác giả: Nguyễn Thị Xiêm Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sƣ phạm Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trƣờng mầm non thị trấn Rạng Đông Huyện Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định Rạng Đông, tháng 12 năm 2018 1 THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Tên sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động làm quen văn học cho trẻ 4-5 tuổi” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Hoạt động vui chơi, hoạt động học. 3. Thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: (Thời gian đã được triển khai thực hiện từ ngày 01/09/2017 đến 01/12/2018) 4. Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Thị Xiêm Năm sinh: 04 - 04 - 1979 Nơi thường trú: Thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: Trường mầm non thị trấn Rạng Đông Điện thoại: 094 2967 326 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường mầm non thị trấn Rạng Đông Địa chỉ: Thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định Điện thoại: 0228.3728.121 2 BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Một số biện pháp nâng cao chất lƣợng hoạt động làm quen văn học cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi” I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là một phần tất yếu không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta. Ngôn ngữ chính là cầu nối giao tiếp giữa con người với con người, đồng thời là phương tiện cho việc dạy và học. Ngôn ngữ nói, đọc, viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nhân cách của con người xã hội nói chung, của trẻ mầm non nói riêng. Ngôn ngữ phát triển mạch lạc sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt từ đó hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Tôi nhận thấy rằng, lứa tuổi 4-5 tuổi là thời kỳ phát triển ngôn ngữ tốt nhất. Là giai đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho khả năng lĩnh hội ngôn ngữ và các kỹ năng nghe, nói, làm quen với đọc, viết. Ở độ tuổi 4-5 tuổi ngôn ngữ của trẻ mang tính chất hoàn cảnh, tình huống nghĩa là ngôn ngữ của trẻ gắn liền với sự vật, hoàn cảnh, con người, hiện tượng đang xảy ra trước mắt trẻ. Năm lên 4 tuổi vốn từ của trẻ là 1 200 từ, sự linh hoạt và phong phú trong ngôn ngữ của trẻ phụ thuộc rất lớn vào môi trường ngôn ngữ xung quanh trẻ, nó bao gồm cả môi trường lớp học, môi trường gia đình và môi trường văn hoá xã hội ở địa phương nơi mà trẻ sinh sống. Thời kỳ này khả năng sử dụng từ khái quát của trẻ tăng lên rõ rệt. Trẻ đã bắt đầu biết nối kết giữa tình huống hiện tại với quá khứ thành một "văn cảnh". Vốn từ của trẻ tăng lên không chỉ số lượng từ mà điều quan trọng là lĩnh hội được các cấu trúc ngữ pháp đơn giản, sử dụng được các loại câu đơn, câu ghép, câu khẳng định, câu phủ định. Đã hình thành những cảm xúc ngôn ngữ qua giọng nói, ngữ điệu, âm tiết, điều chỉnh giọng nói phù hợp với hoàn cảnh khi được nhắc nhở. Dưới sự hướng dẫn của cô giáo, đặc biệt trong hoạt động vui chơi, tạo hình, các tiết kể chuyện, đọc thơ, đọc ca dao, đồng dao, tham quan, âm nhạc, thể dục, qua các hoạt động tập thể... và các nhiệm vụ do người lớn giao cho trẻ, trẻ xác định được trách nhiệm của mình một cách đơn giản, trẻ lĩnh hội được nhiều 3 từ mới và ý nghĩa sử dụng của chúng, là tiền đề quan trọng giúp trẻ hoạt động sau này. Ngôn ngữ chỉ phát triển khi được người lớn - nhà giáo dục hướng dẫn, rèn luyện một cách tích cực. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo diễn ra bằng nhiều con đường với các phương tiện đa dạng khác nhau. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn học khác, đặc biệt là thông qua bộ môn văn học - qua bộ môn này sẽ giúp trẻ khả năng phát triển tư duy và ngôn ngữ, cảm nhận cái hay, cái đẹp xung quanh trẻ, thúc đẩy trí tưởng tượng phong phú của trẻ. Từ xưa đến nay “văn học” luôn là một môn học rất cần thiết trong cuộc sống con người, đặc biệt đối với trẻ mầm non văn học đem lại cho trẻ những hiểu biết đầu tiên về bản thân, về cuộc sống xung quanh, văn học nuôi dưỡng và phát triển ở trẻ trí tưởng tượng, sáng tạo nghệ thuật. Với trẻ mẫu giáo, quá trình cho trẻ làm quen văn học phải từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, để từ đó trẻ bộc lộ khả năng cảm thụ văn học của mình. Khả năng cảm thụ đó là sự phát triển trực tiếp của trẻ về các lĩnh vực: Nhận thức - ngôn ngữ - tình cảm xã hội. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về đề tài làm quen văn học cho trẻ, họ cũng đã có những giải pháp khá hữu hiệu song qua quá trình giảng dạy của bản thân, qua khảo sát khả năng cảm thụ văn học của trẻ, tôi nhận thấy vẫn còn không ít những khó khăn, hạn chế khi giáo viên chuyển tải những tác phẩm văn học đến với trẻ. Đó là: những giờ học tổ chức cho trẻ làm quen với văn học nhiều khi tiết học còn trầm, trẻ chưa thực sự hứng thú, chưa sáng tạo... dẫn đến hiệu quả của tiết học chưa cao. Qua các năm tôi được phân công dạy lớp mẫu giáo 4 -5 tuổi, tôi thấy đa số trẻ từ lớp 3- 4 tuổi chuyển lên hầu như đều đã được làm quen với một số bài thơ, câu chuyện. Nhưng trong đó vẫn còn có một số cháu nói ngọng, nói lắp, nói trống không, nói chưa đủ câu, diễn đạt chưa đủ ý, tiếp thu bài còn gặp nhiều khó khăn, tôi phải thường xuyên chú ý đến trẻ đó nhiều hơn. Đặc biệt, một số trẻ vẫn còn nhút nhát, rụt rè, chưa tự tin nên cũng ảnh hưởng đến quá trình cảm thụ các tác phẩm văn học. 4 Ngoài ra, các bậc phụ huynh lớp tôi phụ trách dù đã quan tâm đến việc học tập của con, nhưng việc giúp trẻ nâng cao khả năng tiếp cận các tác phẩm văn học (truyện, thơ, ca dao, đồng dao) chưa được tốt, ảnh hưởng đến hoạt động làm quen văn học và phát triển ngôn ngữ của trẻ. Từ những khó khăn trên, tôi luôn đặt câu hỏi mình phải làm thế nào để 100% trẻ trong lớp đều hiểu nội dung và biết cảm thụ các tác phẩm văn học một cách hứng thú, có hiệu quả. Chính vì thế, tôi thấy mình cần có những biện pháp cụ thể nhằm giúp trẻ phát huy hết mọi khả năng trong hoạt động làm quen văn học theo hướng đổi mới. Đó là những điều kiện hoàn cảnh để tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động làm quen văn học cho trẻ 4-5 tuổi”. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn: 1.1. Cơ sở lý luận: Hoạt động làm quen văn học có tầm quan trọng trong việc phát triển nhận thức, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ và qua đọc thơ, kể chuyện làm giàu vốn từ cho trẻ, rèn luyện khả năng phát âm và cách diễn đạt mạch lạc. Các tác phẩm thơ, truyện chỉ có thể phát huy tác dụng của nó khi cô biết chuyển tải được tư tưởng cảm xúc của tác giả và nội dung tác phẩm thông qua các hình thức nghệ thuật hấp dẫn, phong phú, đa dạng. Qua đó giúp trẻ phát huy được tính tích cực cá nhân: tự tin - độc lập - sáng tạo - hình thành tư duy - khả năng ghi nhớ có chủ đích, những tình cảm đạo đức tốt đẹp, có khả năng hoạt động nghệ thuật, sáng tạo. Thông qua nội dung các tác phẩm văn học giáo dục trẻ biết yêu quý cái thiện, người hiền lành, biết ơn và kính yêu ông bà, cha mẹ, anh chị, bạn bè, biết nhường nhịn em nhỏ. Các tác phẩm văn học là phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ, có đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn đạt gãy gọn, biết sử dụng từ đúng lúc đúng chỗ, không những thế mà việc dạy trẻ làm quen với những từ ngữ nghệ thuật như: từ tượng hình, từ tượng thanh, giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, ngôn ngữ, khả năng quan sát, khả năng tư duy độc lập trong suy nghĩ. 5 Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học qua nghệ thuật nói, đọc và kể chuyện của cô giáo thì giáo viên dễ dàng nhận ra mức độ cảm thụ văn học của trẻ, giới hạn trong nói đọc, hay nhu cầu hứng thú của trẻ khi làm quen văn học. Từ đó hướng trẻ cảm nhận những giá trị nội dung nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở trẻ sự rung động, hứng thú đối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ, kể chuyện, chơi trò chơi đóng kịch; cao hơn là tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu chuyện theo tưởng tượng của mình, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của trẻ. Trong mỗi tác phẩm văn học, thế giới mới của cuộc sống thực tại bao gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diễn tả, biểu đạt, truyền đạt trong những hình thức đa dạng độc đáo. Văn học nói về thế giới loài vật, cỏ cây, hoa lá, mọi hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ mà trẻ nhìn thấy được, cũng nói về những gì gần gũi trong môi trường sống của trẻ như làng quê, cánh đồng, dòng sông, phiên chợ, lớp học, khu phố Qua tác phẩm văn học, trẻ bắt đầu nhận ra trong xã hội những mối quan hệ, những tình cảm gia đình, tình bạn, tình cô cháu giúp trẻ hướng đến cái thiện, loại trừ cái ác. Trẻ cũng dần nhận ra có một xã hội ràng buộc con người với nhau trong lịch sử dân tộc, trong tình làng nghĩa xóm. Văn học thường đề cập đến những lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt, cô tiên, phù thủy, quỷ sứ và cả những phép màu còn tồn đọng trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam. Đây cũng là đối tượng huyền thoại mà lứa tuổi mầm non yêu thích, làm nên sự phong phú, hấp dẫn của đời sống tinh thần trẻ. 1.2. Cơ sở thực tiễn: Trong quá trình giảng dạy tại trường mầm non thị trấn Rạng Đông, tôi thấy những giờ học tổ chức cho trẻ làm quen với văn học nhiều khi còn tẻ nhạt, chưa mang tính chất sáng tạo... dẫn đến hiệu quả của tiết học chưa cao. Bên cạnh đó, cũng có những giờ tổ chức cho trẻ làm quen với văn học đã gây được hứng thú cho trẻ, trẻ đã tỏ ra thích thú, thích được thể hiện mình qua lời nói, giọng điệu, các vai diễn, thích được khen khi đã phát hiện ra điều gì đó. Tuy 6 nhiên về số lượng trẻ hứng thú thực sự còn hạn chế, là thiểu số chứ chưa phải là đa số. Lớp tôi có 35 trẻ, trong đó có một số cháu nói ngọng, nói lắp, đặc biệt là tiếp thu bài của cháu còn gặp nhiều khó khăn vì vốn từ còn nghèo nàn, tôi phải thường xuyên chú ý đến trẻ đó nhiều hơn. Do đó cũng ảnh hưởng đến quá trình giảng giải cho những trẻ khác. Trong quá trình giảng dạy tôi thấy khả năng cảm nhận các giá trị nghệ thuật qua các tác phẩm văn học của trẻ còn nhiều hạn chế, còn nhiều cháu chưa hiểu về nội dung của câu truyện, đọc thơ chưa diễn cảm, diễn tả lại lời nói của các nhân vật chưa lưu loát và chưa đúng với giọng của nhân vật. Cũng có khi cháu hiểu nội dung, ghi nhớ được tác phẩm nhưng khả năng đọc hay, kể diễn cảm chưa tốt. Qua đó tôi thường xuyên cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm văn học mọi lúc mọi nơi. Vì vậy, đòi hỏi tôi - người giáo viên phải tìm ra những biện pháp cụ thể để giải quyết những vấn đề khó khăn này, thông qua những thuận lợi khó khăn của trẻ, của trường và của bản thân như sau: 2. Thực trạng: * Thuận lợi: Từ khi ra trường đến nay tôi đã có nhiều năm dạy các lớp mẫu giáo, với đặc điểm tâm lý của trẻ 4-5 tuổi, thích tìm hiểu, quan sát, khám phá những điều mới lạ. Tôi luôn nhận được sự quan tâm, hướng dẫn chỉ đạo của các cấp lãnh đạo, của Ban giám hiệu nhà trường và các bạn đồng nghiệp, trường lớp cũng được đầu tư về cơ sở vật chất như: tivi, đầu đĩa, đàn, đài Bản thân được công tác trong trường mầm non thị trấn Rạng Đông là đơn vị có phong trào thi đua giáo dục toàn diện, luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương với mục tiêu “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Giáo dục mầm non là nền tảng cho sự phát triển con người toàn diện”. Nhà trường đã được công nhận lại là trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia. Từ năm học 2004-2005 đến năm học 2017-2018 trường mầm non thị trấn Rạng Đông liên tục giữ vững danh hiệu tập thể lao động xuất sắc, được UBND tỉnh Nam Định tặng cờ “Đơn vị thi đua xuất sắc” năm học 2007-2008, 7 năm học 2016-2017, được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen năm học 2010-2011. Năm học 2015-2016 được Bộ trưởng Bộ GD& ĐT tặng bằng khen, năm học 2017-2018 được Bộ trưởng Bộ GD& ĐT tặng Cờ thi đua trong phong trào đổi mới sáng tạo. Tháng 1 năm 2017 tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh nhà trường vinh dự được Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương lao động hạng III. Bản thân tôi nắm vững các phương pháp hoạt động và có giọng đọc, giọng kể truyền cảm, nhẹ nhàng, không ngọng luôn hấp dẫn, thu hút trẻ. Trong công tác không ngừng tự học, tự bồi dưỡng, luôn được quán triệt, được bồi dưỡng nội dung kế hoạch các chuyên đề một cách đầy đủ và đồng bộ về chương trình. Bản thân tích cực làm đồ dùng đồ chơi, tự trang bị các thiết bị phục vụ cho việc dạy học như máy tính, loa, micro trợ giảng Trẻ ở lớp ngoan, có nền nếp trong mọi hoạt động, hứng thú với các hoạt động đặc biệt là những hoạt động làm quen văn học. Hội phụ huynh luôn quan tâm, giúp đỡ trong các hoạt động của lớp. * Khó khăn: - Diện tích trường, lớp còn chật hẹp. Lớp học chỉ có một phòng chung. - Cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi, tranh ảnh, trang phục, rối tay, rối dẹt còn thiếu, tài liệu tham khảo còn hạn chế. - Có một số trẻ nói ngọng, nói lắp, nói trống không, nói không đủ câu, diễn đạt chưa đủ ý Có nhiều trẻ chưa tích cực và chủ động trong học tập, một số cháu không học qua lớp mẫu giáo bé 3-4 tuổi. Một số trẻ vẫn còn nhút nhát, rụt rè, chưa tự tin nên cũng ảnh hưởng đến việc cảm thụ các tác phẩm văn học. - Các bậc phụ huynh vẫn còn khá chú trọng đến việc làm ăn kinh tế, ít quan tâm đến việc học tập của con nên khả năng tiếp cận các tác phẩm văn học (truyện, thơ, ca dao, đồng dao) của trẻ chưa tốt. * Qua khảo sát thực của trẻ trong lớp tôi, kết quả đạt được trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm như sau: 8 Tổng số trẻ được khảo sát: 35 trẻ. Nội dung Số trẻ Tỷ lệ % Trẻ hứng thú vào hoạt động thơ, truyện 25/35 71,42% Trẻ hiểu nội dung bài thơ, câu chuyện 20/35 57,14% Trẻ trả lời câu hỏi rõ ràng, mạch lạc (lắng nghe, trao đổi) 18/35 51,42% Trẻ đọc thuộc thơ, ca dao, đồng dao 25/35 71,42% Trẻ kể lại truyện có mở đầu, có kết thúc 18/35 51,42% Bắt trước giọng nói, điệu bộ của nhân vật trong truyện. 19/35 54,28% Cầm sách đúng chiều, “đọc vẹt” theo tranh ảnh minh họa 20/35 57,14% Nhận ra kí hiệu thông thường trong cuộc sống 27/35 77,14% Từ số liệu khảo sát thực tế trên cho thấy chất lượng hoạt động làm quen văn học của trẻ còn thấp. Qua đó tôi mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng “Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động làm quen văn học cho trẻ 4-5 tuổi” tại lớp 4 - 5 tuổi tôi đang chủ nhiệm. 3. Mô tả và giới thiệu các nội dung biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề đặt ra: Trên đây là những căn cứ xác thực để tôi nghiên cứu và đưa ra năm giải pháp sau đây: 1. Tạo môi trường học tập cho trẻ 2. Sử dụng đồ dùng, đồ chơi trực quan hấp dẫn 3. Ứng dụng công nghệ thông tin 4. Dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện diễn cảm 5. Phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội 3.1. Giải pháp 1: Tạo môi trường học tập cho trẻ: Môi trường cho trẻ hoạt động là nơi cung cấp nguồn thông tin phong phú, khuyến khích tính độc lập và hoạt động tích cực của trẻ. Môi trường giúp trẻ tìm tòi, khám phá và phát hiện những điều mới lạ hấp dẫn trong cuộc sống, đồng thời các kiến thức và kĩ năng của trẻ được củng cố và bổ sung. Một môi trường đẹp, phong phú và phù hợp sẽ gây hứng thú cho trẻ, trẻ sẽ chú ý và ghi nhớ có chủ định. Chính vì vậy cần tạo cho trẻ môi trường lớp học phong phú, sáng tạo. 9 Ở lớp tôi, tôi đã xây dựng môi trường lớp học ngay tại các góc chơi như: “Bé thích xây gì”; góc “Bé vui học toán”; “Bé yêu văn học” Ở mỗi góc cô đều trang trí những hình ảnh gần gũi, quen thuộc với trẻ có tính sáng tạo... tạo cơ hội cho trẻ hoạt động mọi lúc mọi nơi. Về cơ sở vật chất không gian trong lớp học: Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các đồ dùng, đồ chơi, tổ chức các hình thức học tập để tạo môi trường học tập tốt nhất và thoải mái cho trẻ. Chú ý đến các điều kiện học tập cho trẻ: Như ánh sáng trong phòng học đủ độ sáng theo quy định, không gian thoáng mát, thiết bị học tập, phương tiện giảng dạy, đồ dùng đồ chơi đảm bảo đủ, an toàn tuyệt đối cho trẻ. Sau đây là một vài hình ảnh ví dụ về xây dựng không gian trong lớp học. (Trẻ xem tranh truyện ở góc thư viện trong giờ hoạt động vui chơi) (Góc văn học dân gian của bé) 10 Về môi trường ngoài lớp học: Nhằm tạo cơ hội tốt nhất cho trẻ được làm quen với văn học qua hoạt động nghe, nói, làm quen với dọc viết ở mọi lúc, mọi nơi, ngay từ đầu năm học tôi đã tích cực tham mưu với ban giám hiệu nhà trường tận dụng không gian ngoài lớp học xây dựng các góc thư viện xanh, thư viên cộng đồng dành cho trẻ, dành cho phụ huynh học sinh; đầu tư trang thiết bị cho lớp như: mua nhiều truyện tranh, tạp chí... Tận dụng nguyên vận liệu phế thải, sáng tạo không gian đọc sách truyện, bàn ghế chỗ ngồi cho trẻ xem tranh truyện. Ngoài ra, tôi còn sưu tầm các sách văn học, họa báo, tạp chí, lịch cũ, nguyên liệu cho trẻ tự làm sách để xây dựng “Góc thư viện” mang nội dung văn học ở ngoài lớp học để thay đổi không khí tránh nhàm chán khi ở trong lớp. (Góc sách truyện dành cho phụ huynh và bé) (Cho trẻ làm quen với sách truyện tại góc thư viện xanh trong hoạt động vui chơi ngoài trời) 11 (Tận dụng không gian ngoài lớp học xây dựng góc thư viện cộng đồng) Sau được xem tranh truyện, được nghe cô kể chuyện cô hướng dẫn trẻ tri giác các tranh truyện đó dần dần có thể tự đọc. Lúc đầu trẻ đọc theo trí nhớ, trẻ nhớ về nội dung câu chuyện cô đã kể rồi tự kể khớp với nội dung câu chuyện bằng trí nhớ theo trình tư có mở đầu kết thúc. Cùng với công tác xây dựng môi trường, bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng kể, cách sử dụng tranh, sách tranh, rối mô hình để giúp trẻ cảm thụ tác phẩm văn học đó một cách tốt nhất. Giáo viên phải chú ý đến giọng kể của mình, kể diễn cảm, đúng ngữ điệu của từng nhân vật trong truyện, thể hiện nét mặt cử chỉ, tư thế phù hợp với diễn biến của câu chuyện tạo sự chú ý thu hút trẻ hoà mình vào câu chuyện. Giọng đọc, giọng kể của cô nhịp nhàng, đúng nhịp điệu giúp trẻ hiểu sâu sắc hơn về nội dung bài thơ, câu chuyện và phát huy khả năng cảm thụ văn học của trẻ. 3.2. Giải pháp 2. Sử dụng đồ dùng, đồ chơi trực quan (Tranh nổi, sân khấu rối, rối tay, rối que, sa bàn, hoạt cảnh đóng kịch) Tư duy của trẻ ở lứa tuổi này là tư duy trực quan hình tượng nếu như cô chỉ kể cho trẻ nghe nhiều lần bằng lời trẻ sẽ nhanh chán và tiết học sẽ không tạo cho trẻ có được tính nhanh nhẹn, thông minh, hoạt bát, sáng tạo, hiệu quả tiết 12 học không cao. Muốn trẻ hào hứng tham gia và yêu thích môn văn học thì phải xây dựng nề nếp, thói quen tốt trong học tập cho trẻ như: ngồi học đúng tư thế, cách trả lời câu hỏi của cô, cách sử dụng đồ dùng trực quan khi tham gia các hoạt động như thế nào? Cách thực hiện các bước trong hoạt động làm quen văn học ra sao? Việc lựa chọn và sử dụng đồ dùng trực quan phải đúng lúc, đúng chỗ, phải đủ, đẹp, hấp dẫn, phù hợp với từng tiết học, đúng chủ đề, trẻ phải có đồ dùng trực quan như cô để thao tác và sử dụng cùng một lúc với cô một cách nhịp nhàng. (Cô kể chuyện cho trẻ nghe bằng tranh minh họa) Các đồ dùng trực quan tôi chuẩn bị cho trẻ theo mức độ từ đơn giản đến phức tạp. Trong hoạt động làm quen văn học, đồ dùng đồ chơi trực quan phải đảm bảo về số lượng, đa dạng về chủng loại, đặc biệt phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ. Đồ dùng được sử dụng đảm bảo tính thẩm mỹ, sinh động có tính năng sử dụng cao ttrong mọi hoạt động. Như khi làm những con rối, tôi tận dụng vải, bông rồi khâu thành các nhân vật có đủ các bộ phận như mồm, mắt, mũi, và trang trí quần áo theo nội dung truyện. Ngoài ra, tôi còn sử dụng rối que để di chuyển một cách sinh động trên sân khấu giúp trẻ tập trung nghe cô kể,
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_h.pdf