Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 4 - 5 tuổi khuyết tật ngôn ngữ
Trẻ em là mối quan tâm hàng đầu của gia đình và của toàn xã hội, do đó trẻ cần được hưởng sự giáo dục dạy dỗ chu đáo của mọi người từ gia đình đến xã hội. Một trong rất nhiều nhiệm vụ quan trọng của giáo dục mầm non đó là giáo dục hành vi văn hóa và phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mầm non.
Đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay của thời đại 4.0. Con người đang dần dần phụ thuộc và ỷ lại vào máy móc và công nghệ, thêm vào đó trong gia đình mọi người cũng dần dần giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ trở nên ít đi, đa phần người lớn chủ yếu tập trung vào điện thoại, máy tính, internet, hay vì người lớn bận vào công việc, bị chi phối nhiều bởi việc kiếm tiền, do sự lão hóa dân số và sự gia tăng toàn cầu về tình trạng các bệnh lý mãn tính, do đó tỷ lệ người khuyết tật đang ngày càng gia tăng chưa có con số thống kê cụ thể. Tình trạng trẻ sinh ra bị tự kỷ và khó khăn về ngôn ngữ cũng không nhỏ, đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của trẻ cũng như của toàn xã hội. Đó là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta về quyền của trẻ em. Chính vì thế, việc giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong trường Mầm non là việc làm hết sức quan trọng và cần được quan tâm. Giáo dục hòa nhập sẽ giúp trẻ bị khuyết tật được can thiệp sớm, được giáo dục trong môi trường giáo dục bình thường khắc phục khả năng phát triển kém, giúp trẻ có cơ hội hòa nhập với xã hội,với cộng đồng. Do vậy trường mầm non là chiếc nôi giúp trẻ khuyết tật phát triển tiến bộ hàng ngày, tạo cho trẻ có sự tự tin hòa nhập với cộng đồng, với toàn xã hội.
Năm nay tôi được phân công dạy lớp mẫu giáo nhỡ (4- 5 tuổi), hiện lớp tôi có 1 cháu là cháu Nguyễn Hải Phong bị khuyết tật “Tự kỷ, ngôn ngữ kém” cháu sinh năm 2014. Khả năng hiểu và tương tác với người đối thoại của cháu rất kém. Vì vậy vấn đề đặt ra với tôi lúc này là cần phải tìm hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để tìm ra những biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ giúp trẻ học tốt hơn và hoà đồng với các bạn. Làm thế nào để trẻ thể hiện ngôn ngữ nói khi muốn làm một việc gì đó, hiểu được ngôn ngữ của người khác, vấn đề khó khăn nhất của cháu là ngôn ngữ. Vì thế tôi đã luôn trăn trở và chọn đề tài “Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 4-5 tuổi chậm phát triển ngôn ngữ”. Với mong muốn can thiệp sớm góp phần khắc phục những khó khăn về ngôn ngữ cho trẻ.
MỤC LỤC PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ Trẻ em là mối quan tâm hàng đầu của gia đình và của toàn xã hội, do đó trẻ cần được hưởng sự giáo dục dạy dỗ chu đáo của mọi người từ gia đình đến xã hội. Một trong rất nhiều nhiệm vụ quan trọng của giáo dục mầm non đó là giáo dục hành vi văn hóa và phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ mầm non. Đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay của thời đại 4.0. Con người đang dần dần phụ thuộc và ỷ lại vào máy móc và công nghệ, thêm vào đó trong gia đình mọi người cũng dần dần giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ trở nên ít đi, đa phần người lớn chủ yếu tập trung vào điện thoại, máy tính, internet, hay vì người lớn bận vào công việc, bị chi phối nhiều bởi việc kiếm tiền, do sự lão hóa dân số và sự gia tăng toàn cầu về tình trạng các bệnh lý mãn tính, do đó tỷ lệ người khuyết tật đang ngày càng gia tăng chưa có con số thống kê cụ thể. Tình trạng trẻ sinh ra bị tự kỷ và khó khăn về ngôn ngữ cũng không nhỏ, đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của trẻ cũng như của toàn xã hội. Đó là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta về quyền của trẻ em. Chính vì thế, việc giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong trường Mầm non là việc làm hết sức quan trọng và cần được quan tâm. Giáo dục hòa nhập sẽ giúp trẻ bị khuyết tật được can thiệp sớm, được giáo dục trong môi trường giáo dục bình thường khắc phục khả năng phát triển kém, giúp trẻ có cơ hội hòa nhập với xã hội,với cộng đồng. Do vậy trường mầm non là chiếc nôi giúp trẻ khuyết tật phát triển tiến bộ hàng ngày, tạo cho trẻ có sự tự tin hòa nhập với cộng đồng, với toàn xã hội. Năm nay tôi được phân công dạy lớp mẫu giáo nhỡ (4- 5 tuổi), hiện lớp tôi có 1 cháu là cháu Nguyễn Hải Phong bị khuyết tật “Tự kỷ, ngôn ngữ kém” cháu sinh năm 2014. Khả năng hiểu và tương tác với người đối thoại của cháu rất kém. Vì vậy vấn đề đặt ra với tôi lúc này là cần phải tìm hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để tìm ra những biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ giúp trẻ học tốt hơn và hoà đồng với các bạn. Làm thế nào để trẻ thể hiện ngôn ngữ nói khi muốn làm một việc gì đó, hiểu được ngôn ngữ của người khác, vấn đề khó khăn nhất của cháu là ngôn ngữ. Vì thế tôi đã luôn trăn trở và chọn đề tài “Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 4-5 tuổi chậm phát triển ngôn ngữ”. Với mong muốn can thiệp sớm góp phần khắc phục những khó khăn về ngôn ngữ cho trẻ. PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I. Cơ sở lý luận của vấn đề: Giai đoạn lứa tuổi mầm non trẻ phát triển mạnh mẽ về thể chất, trí tuệ tinh thần, trẻ ham hiểu biết thích tìm tòi mọi thứ xung quanh. Dưới sự hướng dẫn của cô giáo trẻ sẽ lĩnh hội kiến thức được chính xác, đầy đủ hơn thông qua ngôn ngữ, Vì vậy trẻ chậm phát triển ngôn ngữ là sự chậm trễ ngôn ngữ dưới mức cho phép cho một đứa trẻ của một độ tuổi quy định. Chậm ngôn ngữ là một rối loạn giao tiếp, dẫn đến trẻ hạn chế trong giao tiếp, trò chuyện, thường nhắc lại hay nói theo một thứ tự nhất định, ít sáng tạo dẫn tới nguy cơ không hòa nhập được trong xã hội, gây ra các hệ quả về hành vi và tương tác xã hội cho trẻ trong những năm sau này. Vì thế phát triển vốn từ cho trẻ là việc tổ chức có kế hoạch, có khoa học, nhằm cung cấp, làm giàu vốn từ, nâng cao khả năng hiểu nghĩa của từ, khả năng phát âm, ngôn ngữ mạch lạc, rõ ràng, củng cố và tích cực hóa vốn từ cho trẻ, giúp trẻ biết vận dụng phù hợp vốn từ đó trong hoạt động giao tiếp của mình. Với sự phát triển của xã hội hiện nay đòi hỏi con người phát triển toàn diện theo yêu cầu của xã hội là vấn đề trọng tâm của giáo dục. Vì thế ngành học mầm non luôn đặt ra những yêu cầu thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ theo hướng đổi mới để trẻ được phát triển toàn diện phù hợp với xu hướng của thời đại khoa học, công nghệ và thông tin, đó là những đứa trẻ tích cực, chủ động, sáng tạo, thích tìm tòi khám phá và ham hiểu biết. Nhiệm vụ đặt ra cho mỗi giáo viên luôn phải tìm tòi, sáng tạo, tự học hỏi bồi dưỡng bản thân để luôn đổi mới hình thức tổ chức cho trẻ hoạt động, giúp đỡ khắc phục bớt những khó khăn cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ. Là giáo viên trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ ở lứa tuổi này, tôi nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ cũng như nắm chắc phương pháp hữu ích phù hợp với trình độ nhận thức của trẻ, tôi giành nhiều thời gian để gần gũi, trò chuyện, quan sát tới tất cả các trẻ đặc biệt là những cháu có vấn đề khó khăn về ngôn ngữ. Để đạt được mục tiêu chăm sóc giáo dục, phải chú ý đến nhu cầu hứng thú của trẻ, theo Bruner: “Bất cứ điều gì cũng có thể dạy cho trẻ miễn là điều đó trẻ muốn học, khuyến khích phát triển tính tò mò, khám phá của trẻ nhằm phát triển ngôn ngữ, khả năng chú ý, tư duy, khám phá và giải quyết vần đề”. Hiểu rõ hứng thú của trẻ cũng như ích lợi của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là trẻ chậm ngôn ngữ trong công tác giảng dạy ở trường Mầm non, áp dụng một cách sáng tạo và thành công. II. Thực trạng của vấn đề. - Nơi tôi công tác là một trường mầm non nằm ở trung tâm địa bàn của xã, bên cạnh đường giao thông 179, nơi có tập trung 3 bậc học phổ thông, trạm y tế và UBND xã. Trường đã tập trung tất cả các nhóm lớp về một điểm, hiện nay trường đang hoàn thành việc xây dựng trường. Trong nhiều năm qua trường mầm non chúng tôi đã tiếp nhận nhiều cháu khuyết tật học hòa nhập với tỷ lệ ngày càng tăng, hiện nay trung bình mỗi lớp có khoảng từ 1 đến 2 cháu bị khuyết tật hoặc khiếm khuyết (tỷ lệ đáng báo động cho toàn xã hội) với các thể loại nặng nhẹ khác nhau: Có trẻ bị sốt teo cơ không đi được, có trẻ bị chậm phát triển, ngôn ngữ kém, bị tật tim bẩm sinh, bị teo não, bị đao, tự kỷ Đa số tâm lý trẻ đều bất ổn về tinh thần, trẻ thường chậm nói, ít nói, không muốn tiếp xúc với mọi người, thiếu tự tin. Có trẻ thì hay nghịch phá, không biết vâng lời, thích tự ý làm những việc mà trẻ muốn. - Với lớp tôi phụ trách năm nay là lớp Mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi), lớp có 45 cháu/2 cô. Số trẻ trai là 25 cháu, số trẻ gái là 20 cháu. Nhìn chung các cháu khỏe mạnh, nhanh nhẹn, đa số các cháu có quê quán tại địa bàn đang học, được sinh ra trong gia đình ít con nên được gia đình cưng chiều. Tuy nhiên trong lớp còn có một số cháu có hoàn cảnh đặc biệt khó về hoàn cảnh kinh tế vì bố mẹ còn mải đi làm nên ít được quan tâm như các bạn, do đó ngôn ngữ của các cháu này có phần khiếm khuyết, nói còn chưa đủ câu, hay nói chống không, chưa được lễ phép .v.v. như cháu: Anh Minh, viêt Anh, trong đó đặc biệt là cháu Nguyễn Hải Phong rơi vào tình trang chậm phát triển ngôn ngữ. - Bản thân tôi có trình độ chuẩn về chuyên môn (Cao đẳng sư phạm), nhiệt tình yêu nghề mến trẻ, đã được đào tạo bồi dưỡng về giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập trong trường học Mầm non. - Còn đối với cá nhân cháu Nguyễn Hải Phong có những biểu hiện như sau: + Cơ thể cháu phát triển bình thường nhưng khả năng nghe hiểu, đối thoại và làm theo đề nghị của cháu với người mọi người xung quanh còn rất nhiều hạn chế và khó khăn, cháu hay ú ớ, hoặc hay nhắc lại câu nói của người khác. + Cháu thường không nhìn người khác, tránh các giao tiếp, ngôn ngữ kém, hay nói chuyện một mình vu vơ, nói không rõ ràng, nói các từ vô nghĩa, hay làm những việc bột phát theo ý muốn của mình. + Thường hay ôm bạn nói vu vơ, và không hiểu bạn nói gì. + Cháu hay ngồi một mình không chơi đùa với các bạn, không tham gia vào các hoạt động của lớp, cháu còn hay đi tiểu ra quần nếu như không nhắc cháu đi vệ sinh. Cháu xúc cơm được nhưng rơi vãi rất nhiều. + Hoặc có tham gia chơi nhưng không nói, không làm theo nhiệm vụ của nhóm chơi mà thường hay làm theo ý mình, hay phá phách. Không hoàn thành nhiệm vụ. - Về phía gia đình: Gia đình cháu chỉ có 1 mình cháu, nguyên quán tại địa bàn, bố mẹ mải đi làm nên không thường xuyên đưa đón cháu đi học, chủ yếu là ông bà. Từ những thực trạng trên, để thực hiện tốt việc phát triển vốn từ cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ tôi thấy có những thuận lợi và khó khăn sau đây: 1. Thuận lợi: - Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, Phòng giáo dục và Ban Giám Hiệu nhà trường đã tạo điều kiện đầu tư về cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, hiện nay trường đã được đầu tư xây dựng trường mới theo tiêu chuẩn quốc gia và đang trong giai đoạn hoàn thiện. - Lớp được đầu tư trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi tương đối đầy đủ: Xốp bi tít, đề can, giấy màu.... - Bản thân tôi có trình độ đã qua lớp học giáo dục hoà nhập cho trẻ, thêm vào đó hàng ngày được bạn bè, đồng nghiệp trao đổi về các trường hợp trẻ khuyết tật học hòa nhập ở nhóm lớp của các bạn. - Trẻ của lớp nhìn chung các cháu nhanh nhẹn, khỏe mạnh. Có nhiều phụ huynh quan tâm tới lớp và rất nhiệt tình trong mọi hoạt động của lớp 2. Khó khăn: - Trường Mầm Non nơi tôi công tác là trường mới đang trong giai đoạn hoàn thiện, do việc xây dựng chưa xong nên phòng học còn thiếu, do đó tỷ lệ học sinh trên lớp còn đông (45 trẻ/1lớp) nên ít nhiều còn ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả của các hoạt động. Do đó việc thực hiện chăm sóc giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục mầm non mới còn khó khăn và hạn chế. Tuy nhiên tôi vẫn phải luôn luôn cố gắng nỗ lực để khắc phục những điều kiện khó khăn của nhà trường để tiến hành các hoạt động tương tác với trẻ, đặc biệt cháu chậm ngôn ngữ. Chính vì vậy tôi đã tạo cho trẻ những hứng thú vui thích và mong muốn được đến trường học. Để thực hiện tốt việc phát triển vốn từ cho trẻ chậm phát triển ngôn - Tôi chưa có kinh nghiệm trong việc giáo dục trẻ khuyết tật. Năm nay tôi mới dạy lớp có trẻ khuyết tật nên việc lập kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ còn gặp nhiều khó khăn. - Do là trẻ khuyết tật nên trẻ gặp nhiều khó khăn khi tham gia và các hoạt động của lớp như: Đọc thơ, múa, thể dục, vẽ, tô màu..... và hoà nhập cùng các bạn. - gia đình cháu Nguyễn Hải Phong không thừa nhận cháu là “Tự kỷ và chậm phát triển ngôn ngữ” mà cho là có tính di truyền từ ông nội nên không quan tâm đến việc trao đổi, tìm hiểu các biện pháp để rèn luyện khắc phục cho con những khuyết điểm về ngôn ngữ. - Thêm vào đó trường tôi ở vùng nông thôn ngoại thành còn gắn liền với nền sản xuất nông nghiệp nên đa phần sự hiểu biết của người dân về trẻ tự kỷ và châm phát triển ngôn ngữ còn nhiều hạn chế. Đó chính là những khó khăn mà tôi gặp phải khi lần đầu tiên tôi đứng lớp có trẻ khuyết tật. Nó đặt ra cho tôi những suy nghĩ phải dùng những biện pháp nào để giúp những trẻ khuyết tật có thể hoà nhập với các bạn trong lớp, trẻ có hứng thú khi tham gia chơi và học cùng các bạn. III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: Vì chư có kinh nghiệm trong việc giáo dục trẻ khuyết tật, nên trước tiên tôi thường xuyên tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua sách báo, qua phương tiện internet , qua kinh nghiệm của bạn bè, đồng nghiệp về trẻ em bị khuyết tật . Là một giáo viên đứng lớp tôi cần tìm ra nhu cầu và khả năng của trẻ khuyết tật đó của lớp mình xem cháu khiếm khuyết về ngôn ngữ ở thể loại nào? Phát âm ngọng, hay rối loạn ngôn ngữ, xem cháu có hiểu câu hỏi của cô không, cháu có thể trả lời được câu hỏi của cô không, ở mức độ nào .v.v. Để từ đó tôi lập kế hoạch hình thành các biệp pháp phù hợp cho việc rèn luyện và phát triển vốn từ cho trẻ chậm ngôn ngữ tại nhóm lớp của mình phụ trách. Nhằm giúp trẻ hoà đồng và thực hiện tốt những mong muốn yêu cầu chưa được đáp ứng. Và tôi đã xây dựng chương trình kế hoạch giáo dục cá nhân riêng cho trẻ để đánh giá năm mặt phát triển của trẻ: Thể chất vận động - khả năng ngôn ngữ và giao tiếp - khả năng nhận thức - khả năng tự phục vụ - khả năng tình cảm xã hội và thẩm mỹ. Để trẻ có thể hoà nhập với các bạn trong lớp và học tập hứng thú hơn tôi đã lập “kế hoạch can thiệp sớm, theo dõi trẻ hằng ngày” và ghi vào sổ nhật ký. Hằng tuần tôi lập kế hoạch để dạy cho trẻ hướng dẫn trẻ thực hiện. Tôi theo dõi quan sát từng biểu hiện của trẻ. Nếu trẻ chưa thực hiện được trong ngày, trong tuần. Tôi đưa kế hoạch đó vào tuần sau để trẻ thực hiện tốt hơn. Biện pháp 1: Cô gây thiện cảm đối với trẻ khuyết tật. - Trẻ nhỏ rất cần những lời động viên quan tâm. Khi được cô quan tâm, yêu quí, gần gũi vỗ về sẽ kích thích trẻ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp. - Khi dạy trẻ tôi thường gần gũi trẻ, cho trẻ ngồi gần mình để dễ quan sát và chăm sóc cháu hơn. Tạo cho trẻ niềm tin đối với cô giáo. - Trẻ chậm phát triển trí tuệ nên cháu rất hay quên. Trẻ thường hay lơ đãng, không chú ý đến lời cô dạy. Tôi ngồi gần nhắc nhở cháu, động viên cháu. Đối với các bài thơ khi dạy trẻ tôi thường dạy rất chậm và giảng giải từng câu ngắn trong bài thơ để trẻ hiểu.Với những từ khó tôi giảng giải và cho trẻ đọc nhiều lần nhấn mạnh theo cô. Mỗi ngày tôi dành ít nhất 15 phút cho cháu để dạy trẻ đọc thơ, và trò chuyện với trẻ. - Đối với môn kể chuyện thì giờ hoạt động chiều tôi thường cho trẻ xem sách có tranh ảnh kèm theo để đọc cho trẻ nghe. Kể cho trẻ nghe nhiều lần. Sau đó tôi cho trẻ chỉ từng nhân vật và kể chuyện cùng cô để trẻ biết tên nhân vật trong các câu truyện. Ví dụ: Câu truyện “Trái tim của khỉ” ngoài việc chỉ tranh và nói tên của nhân vật tôi còn cho trẻ nói về tính cách nhân vật. Con thấy con cá Sấu như thế nào? Cá Sấu có phải là con vật tốt không? - Đối với môn tạo hình: Trẻ không tập trung, cầm bút yếu và thường không chịu vẽ hoặc có vẽ thì vẽ nhỏ, hoặc không rõ hình hay là vẽ bậy vào bài. Do vậy tôi luôn chú ý đến trẻ: Lúc đầu tôi bắt tay cho trẻ vẽ sau đó tôi chỉ cho trẻ con nên vẽ gì vẽ như thế nào? Con sẽ tô màu cho bức tranh như thế nào? Cô hướng dẫn cách tô cho trẻ cách cầm bút sao cho đúng. Cô khuyến khích trẻ tô màu đẹp không lem ra ngoài, không vẽ bậy vào sách làm bẩn sách. Để kích thích trẻ tôi thuờng khen ngợi trẻ kịp thời khi trẻ ngoan và làm tốt theo yêu cầu của cô. - Từ những việc làm trên tôi thấy trẻ bắt đầu có những biểu hiện muốn gần cô, nhìn cô âu yếm từ đó trẻ trao đổi với cô những điều trẻ muốn biết và trẻ bắt đầu có những mối quan hệ với xung quanh. Biện pháp 2: Lập kế hoạch giáo dục riêng cho trẻ khuyết tật. Kế hoạch giáo dục cá nhân riêng cho trẻ đánh giá năm mặt phát triển của trẻ: Phát triển thể chất, phát triển ngôn ngữ, phát triển nhận thức, phát triển tình cảm xã hội, phát triển thẩm mỹ. - Để trẻ có thể hoà nhập với các bạn trong lớp và hứng thú hơn tôi đã lập kế hoạch: “Theo dõi trẻ hàng ngày” và ghi nhật ký hàng ngày những hành động và những biểu hiện của trẻ. - Hằng tuần tôi lập kế hoạch để dạy cho trẻ hướng dẫn trẻ thực hiện. Tôi ghi sổ, theo dõi, quan sát từng biểu hiện ở trẻ. Nếu trẻ chưa thực hiện được trong ngày, trong tuần. Tôi đưa kế hoạch đó vào tuần sau để trẻ thực hiện tiếp. Kế hoạch chăm sóc giáo dục cá nhân trẻ trong 1 tuần. Mục tiêu Giải pháp thực hiện Kết quả - Cháu biết tên, nơi cất để đồ dùng cá nhân của trẻ. - Cháu thực hiện các yêu cầu đơn giản như: Cất balô vào tủ, để dép lên giá, treo khăn lên giá, cất cốc vào giá..... đúng nơi qui định. - Dạy trẻ đọc 1 số bài thơ ngắn theo từng chủ đề ví dụ chủ đề động vật bài “Con cua, ngựa con....” - Cháu biết đi vệ sinh đúng nơi qui đinh và biết rửa tay khi tay bẩn. - Cháu biết dùng lời nói để nói lên ý của mình hay khi bị bạn trêu. - Hàng ngày tôi gọi cháu lên lấy cất đồ dùng của cháu theo yêu cầu của cô. Nếu cháu chưa biết cô dạy cháu cách nhận biết dần dần. - Cô quan sát nhắc nhở cháu thường xuyên. Nếu trẻ chưa biết cô làm mẫu cho trẻ 1- 2 lần. Dạy trẻ sắp xếp đúng chỗ và ngăn nắp. - Dạy trẻ đọc thường xuyên mọi lúc, mọi nơi như: giờ đón trẻ, giờ chuẩn bị đi ngủ, giờ trả trẻ... - Cô nhắc trẻ những khi cháu tay bẩn hay đi vệ sinh. - Tôi hỏi trẻ và dạy trẻ cách nói. - Cháu có phản ứng khi cô gọi tên cháu (Quay về phía cô đang gọi). Cháu nhận biết được 100% đồ dùng cá nhân của trẻ. - Cháu thực hiện tốt 90%. - Cháu thực hiện được 80% - Cháu thực hiện được 100% - Cháu thực hiện được 100% Biện pháp 3: Giúp trẻ khuyết tật hoà nhập thông qua các môn học - Trẻ có ngôn ngữ còn hạn chế khó nhận ra các mối quan hệ giữa các sự vật và hiện tượng xung quanh vì vậy tôi lên kế hoạch rèn trẻ thông qua các môn học. * Môn tìm hiểu “Môi trường xung quanh” tôi cho trẻ quan sát trực tiếp sự vật đó Ví dụ: Cho trẻ tìm hiểu về các loại hoa. Tôi cho trẻ xem các loại hoa quen thuộc như hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền thật để cho trẻ quan sát. Cho trẻ sờ vào các cánh hoa xem cánh hoa như thế nào? Cho trẻ ngửi xem hương thơm của hoa ra sao? Cho trẻ cầm từng cành hoa xem đặc điểm của từng bông hoa như thế nào. Hoặc cho trẻ tìm hiểu một số con vật sống dưới nước. Tôi cho trẻ quan sát con cá bơi trong bể nước. Tôi quan sát biểu hiện của trẻ xem như thế nào tôi thấy: + Mới đầu trẻ không chú ý vào các con sự thật. Trẻ có biểu hiện có vẻ sợ hãi. Sau một lúc quan sát thấy các bạn gọi nhau, bảo với nhau: “Con cá đấy! Con cá đấy”. Trẻ bắt đầu nhìn vào bể cá và bắt đầu quan sát rất chăm chú. Tôi lại gần hỏi những trẻ xung quanh trước là con gì đây? Nó như thế nào? Sau đó tôi gọi trẻ trả lời lại câu hỏi tôi thấy trẻ trả lời rất tự tin. Cho trẻ tìm hiểu về các loại quả, tôi cho trẻ xem quả dưa hấu, quả xoài, đu đủ thật để trẻ quan sát, cho trẻ nếm mùi, vị của quả đó hoặc cho trẻ quan sát con chó, con mèo tôi cũng đem các con vật thật cho trẻ xem để trẻ được sờ bộ lông, nghe tiếng kêu thật của các con vật đó để giúp trẻ hiểu rõ hơn và nói được một số đặc điểm của con vật đó. - Từ những cách đó giúp trẻ hiểu rõ hơn và nói được một số đặc điểm của các loài hoa hay các con cá đó. * Môn “ Làm quen với văn học” Khi dạy để không làm ảnh hưởng đến các trẻ khác tôi cho cháu ngồi gần cô để dễ quan sát. Trẻ chậm phát triển trí tuệ vì thế cháu rất hay quên nên rất khó cho tôi trong việc dạy trẻ. Trẻ thường hay lơ đãng không chú ý khi nghe cô dạy, tôi phải chú ý nhắc nhở cháu nhiều lần. Đối với các bài thơ khi dạy trẻ tôi thường đọc rất chậm từng câu ngắn trong bài thơ để trẻ hiểu. Nếu trong bài thơ có những từ khó tôi giảng giải cho trẻ hiểu và đọc lại nhiều lần, nhấn mạnh để trẻ nhấn mạnh đọc theo cô. Ngoài ra mỗi ngày tôi dành 15 phút để dạy riêng cho trẻ đọc thơ, trò chuyện cùng trẻ. + Đối với môn kể chuyện ngoài việc kể cho trẻ nghe cùng các bạn trong lớp, giờ hoạt động chiều tôi lấy sách tranh truyện (có ảnh) ra để đọc cho trẻ nghe. Kể cho trẻ nghe nhiều lần, cho trẻ chỉ vào truyện để trẻ biết tên của các nhân vật trong câu chuyện. Ví dụ: Chủ đề “Thế giới động vật” tiết học kể chuyện “Bác gấu đen và hai chú Thỏ” ngoài việc chỉ tranh và nói tên các nhân vật trong chuyện, cô gợi ý và hỏi trẻ về tính cách của nhân vật: Con thấy bạn Thỏ nào tốt? Câu chuyện “Chiếc cầu mới” ở lần kể thứ 3 tôi cho trẻ xem hình ảnh có các nhân vật động phối hợp với lời kể. Lúc đầu tôi thấy trẻ không chú ý lên màn hình nhưng khi thấy các bạn vỗ tay và tiếng động của các nhân vật trong truyện tôi thấy trẻ thay đổi hẳn thái độ. Trẻ hào hứng hơn, khi đến nhân vật Thỏ trẻ chỉ lên màn hình và nói to: Cô ơi! Thỏ đấy, Thỏ đấy. Từ đó tôi khai thác và thường xuyên cho trẻ nghe kể chuyện bằng các hình ảnh động hay những con rối chúng tôi tự tạo kết hợp với lời thoại của nhân vật. Tôi thấy trẻ có chiều hướng phát triển tốt cả về ngôn ngữ lẫn hành động. * Môn “Âm nhạc”: Tôi cho trẻ hát 1 mình thì thấy trẻ không những không hát mà còn cúi gằm mặt hoặc quay đi. Qua đó tôi nghĩ chắc trẻ xấu hổ tôi thay đổi biện pháp mời từng tổ hát một. Sau đó tôi mời tổ cuối cùng có trẻ khuyết tật hát thì thấy cháu cùng hát với các bạn những khi không thuộc cháu dừng lại và quan sát bạn bên cạnh. Những lúc rảnh tôi thường dạy cháu hát, múa một mình với cô. Từ đó tôi biết là trẻ xấu hổ không tự tin nên trẻ có phản ứng như vậy. Qua đó có biện pháp đúng kích thích ngôn ngữ cho trẻ Biện pháp 4: Giúp trẻ khuyết tật biểu đạt ngôn ngữ của mình thông qua các hoạt động. - Tôi hỏi trẻ các góc chơi có tên gì từ đó dần dần trẻ nhớ tên từng góc chơi. Tôi dắt cháu đi từng góc chơi, giải thích cho trẻ hiểu các bạn đang làm gì. Bạn Thảo đang nấu ăn, bạn đang rán cá ... Bạn Minh đang xây dựng công viên. Qua đó tôi thấy kích thích ngôn ngữ cho trẻ ngày càng phong phú hơn. Tôi bắt đầu cho cháu chơi từng góc chơi cứ 2- 3 ngày tôi lại đổi góc chơi 1 lần cho cháu. * Hoạt động góc: + Trước khi vào hoạt động góc tôi thường hỏi cá nhân trẻ thích chơi ở góc nào. Bạn nào thích chơi ở gó
File đính kèm:
- giaoducmaugiaonhob3senmndangxa_212202016(1).doc