Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn

Trẻ thơ như búp trên cành, như măng mới mọc, như mặt trời bình minh ” Những hình ảnh ví von ấy đã thể hiện sâu sắc tình cảm và niềm tin của người đời đối với trẻ thơ, của những người làm cha làm mẹ đối với con em mình thật dạt dào, nồng ấm. Trong nhà trường, tiếng reo hò và sự hiếu động của trẻ thơ là niềm vui, là động lực quan trọng để mỗi cô giáo thêm yêu nghề, vượt khó Mỗi lần đi xa, vắng tiếng reo hò và sự hiếu động của trẻ là thấy nhớ, thấy thương! Sức sống ấy càng mạnh mẽ hơn ở lứa tuổi mầm non, với những đôi mắt sáng long lanh mở rộng tâm hồn của trẻ; với những nụ cười tươi trên từng khuôn mặt hồn nhiên như hoa mùa xuân, luôn thu hút thầy cô quên cả những nhọc nhằn.

Trẻ em chính là trang sách mở đầu của mỗi cuộc đời, là nơi đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng nền móng nhân cách của con người. Làm thế nào để xây dựng được cầu nối cho trẻ em có thể bước vào đời một cách hoàn hảo nhất?

 Như chúng ta đã biết, mục đích của nền giáo dục là đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân tương lai của đất nước, có nhân cách và trí tuệ, có sức khỏe và kỹ năng sống đáp ứng được yêu cầu của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Muốn có những con người như vậy cần có một môi trường giáo dục thân thiện và tích cực.

 Trước tiên, chúng ta hăy cùng nhau tìm hiểu xem “Kỹ năng sống là gì? Và tại sao phải rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ?” . Thực tế đă tồn tại nhiều định nghĩa song chưa có một khái niệm nào thống nhất trên phạm vi toàn thế giới. Kỹ năng sống được tiếp cận theo nhiều quan điểm khác nhau và điều này cũng ảnh hưởng đến việc phân loại kỹ năng sống. Có thể đưa ra một số định nghĩa như sau:

 - Theo cách hiểu thông thường, theo tư duy dân gian truyền thống:

+Kỹ năng sống là năng lực vận dụng có kết quả các tri thức về giá trị sống và những tri thức về phương thức hành động ứng xử của cá nhân để chiếm lĩnh, thể hiện, phát triển và hoàn thiện những giá trị sống đó, từ đó xác định đúng vai trò vị thế theo nghĩa vụ và lợi ích của bản thân mình trong các mối quan hệ với người khác ở gia đình, nhà trường, địa bàn dân cư và rộng ra là với dân tộc, nhân loại.

doc20 trang | Chia sẻ: thienanh95 | Lượt xem: 530 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
 Lý do chọn đề tài:
	“Trẻ thơ như búp trên cành, như măng mới mọc, như mặt trời bình minh” Những hình ảnh ví von ấy đã thể hiện sâu sắc tình cảm và niềm tin của người đời đối với trẻ thơ, của những người làm cha làm mẹ đối với con em mình thật dạt dào, nồng ấm. Trong nhà trường, tiếng reo hò và sự hiếu động của trẻ thơ là niềm vui, là động lực quan trọng để mỗi cô giáo thêm yêu nghề, vượt khó Mỗi lần đi xa, vắng tiếng reo hò và sự hiếu động của trẻ là thấy nhớ, thấy thương! Sức sống ấy càng mạnh mẽ hơn ở lứa tuổi mầm non, với những đôi mắt sáng long lanh mở rộng tâm hồn của trẻ; với những nụ cười tươi trên từng khuôn mặt hồn nhiên như hoa mùa xuân, luôn thu hút thầy cô quên cả những nhọc nhằn.
Trẻ em chính là trang sách mở đầu của mỗi cuộc đời, là nơi đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng nền móng nhân cách của con người. Làm thế nào để xây dựng được cầu nối cho trẻ em có thể bước vào đời một cách hoàn hảo nhất?
	Như chúng ta đã biết, mục đích của nền giáo dục là đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân tương lai của đất nước, có nhân cách và trí tuệ, có sức khỏe và kỹ năng sống đáp ứng được yêu cầu của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Muốn có những con người như vậy cần có một môi trường giáo dục thân thiện và tích cực.
	Trước tiên, chúng ta hăy cùng nhau tìm hiểu xem “Kỹ năng sống là gì? Và tại sao phải rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ?” . Thực tế đă tồn tại nhiều định nghĩa song chưa có một khái niệm nào thống nhất trên phạm vi toàn thế giới. Kỹ năng sống được tiếp cận theo nhiều quan điểm khác nhau và điều này cũng ảnh hưởng đến việc phân loại kỹ năng sống. Có thể đưa ra một số định nghĩa như sau:
	- Theo cách hiểu thông thường, theo tư duy dân gian truyền thống:
+Kỹ năng sống là năng lực vận dụng có kết quả các tri thức về giá trị sống và những tri thức về phương thức hành động ứng xử của cá nhân để chiếm lĩnh, thể hiện, phát triển và hoàn thiện những giá trị sống đó, từ đó xác định đúng vai trò vị thế theo nghĩa vụ và lợi ích của bản thân mình trong các mối quan hệ với người khác ở gia đình, nhà trường, địa bàn dân cư và rộng ra là với dân tộc, nhân loại. Mặc dù kỹ năng sống được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau nhưng đều có điểm chung là giúp con người chuyển dịch kiến thức và thái độ, giá trị thành hành động thực tế. Kỹ năng sống mang tính cá nhân và tính xã hội. Bởi vậy, một số nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não cho trẻ thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng tự kiểm soát, thể hiện các cảm
giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường.Vì vậy mà hiện nay đó có rất nhiều trường mầm non áp dụng phương pháp học tập thông qua các giao tiếp tích cực với những người khác.
Nhận thức được nhiệm vụ cao cả đó, bản thân tôi – một cô giáo mầm non đầy nhiệt huyết luôn mong muốn cho những đứa con thân yêu của mình có những bước đi đầu đời vững chắc và đúng đắn. Đặc biệt, trẻ lứa tuổi mầm non mới tiếp xúc với thế giới xung quanh nên mọi thứ đều vô cùng lạ lẫm và mới mẻ. Hơn thế nữa, một số các bậc cha mẹ thì mải lo làm ăn kinh tế không quan tâm đến con cái, một số khác lại nuông chiều, cung phụng con cái một cách thái quá vì thế mà kỹ năng sống của trẻ càng trở nên hạn chế. Nhớ đến câu “ Uốn cây khi hãy còn non, dạy con thì dạy lúc còn trẻ thơ”. Đúng vậy, trẻ em giống như một mầm non, nếu chúng ta bỏ công sức ra uốn nắn ngay từ nhỏ thì trẻ sẽ nhanh tiếp thu và dễ dàng khắc sâu những điều hay lẽ phải, giúp trẻ trưởng thành và hoàn thiện hơn về nhân cách. Làm thế nào để những mầm non hôm nay xứng đáng trở thành chủ nhân tương lai của đất nước? Đó là vấn đề khiến tôi trăn trở rất nhiều. 
Chính vì vậy tôi đã nghiên cứu và thực hiện để có được “Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn”.Mong các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp tham khảo và đóng góp thêm để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình
PHẦN II : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/Cơ sở lý luận
	Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ có cơ hội rèn luyện thói quen, biết cách đối diện và đương đầu, vượt qua những khó khăn, thử thách trong học tập cũng như trong mọi hoạt động khác. Giúp trẻ rèn luyện, phát triển tính cách tự chủ, tự tin vào bản thân, có tinh thần trách nhiệm cao, có khả năng diễn đạt, thuyết phục, hình thành lối sống lành mạnh, phẩm chất đạo đức tốt, tương thân tương ái, biết chia sẻ, giúp đỡ người khác. Đó chính là những yếu tố quan trọng giúp mọi người thành công trong cuộc đời.
Từ nhiều năm nay, Bộ Giáo dục- Đào tạo đã phát động phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh vào các hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Trong những nội dung thực hiện có nội dung rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Vậy tại sao phải rèn kỹ năng sống cho học sinh? Như chúng ta đă biết, ḍòng chảy cuộc sống trong xă hội hiện đại đang gia tăng tốc độ, đồng thời cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề mà khi con người không có khả năng thích ứng thì sẽ có những hành vi rủi ro, tạo ra hậu quả xấu không chỉ cho cá nhân đó mà c̣òn ảnh hưởng đến cộng đồng xă hội. Đặc biệt là thế hệ trẻ đang phải đứng trước những thử thách và nhiều vấn đề phức tạp của cuộc sống. Nếu không được trang bị những kỹ năng sống cần thiết khi gặp khó khăn trẻ sẽ dễ bị hoang mang, kích động. Vì vậy nếu được trang bị đầy đủ kỹ năng sống thì không những chất lượng cuộc sống được tăng lên mà c̣òn góp phần phát triển xă hội lành mạnh, bền vững. Chính vì vậy nếu được trang bị những kỹ năng sống cần thiết ngay từ lứa tuổi mầm non sẽ tạo dựng được nền móng vững chắc cho cuộc sống sau này.
 Tâm lý chung phụ huynh nào cũng mong muốn con mình ngoan, học giỏi và trưởng thành. Nhưng việc giáo dục con cái xem ra không hề đơn giản. Giáo dục cũng phải đúng cách, tùy từng lứa tuổi mà có cách khác nhau. Phải dạy cho con trẻ các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống ngay từ khi còn nhỏ. Để giúp trẻ hình thành thói quen trong cách ứng xử với những người xung quanh một cách có văn hóa. Phải giáo dục liên tục, lâu dài và bài bản.
II/Cơ sở thực tiễn
1/Thuận lợi
- Nhà trường: Đã xây dựng kế hoạch năm học đề ra những định hướng giúp giáo viên thực hiện nhiệm vụ rèn kỹ năng sống cho học sinh như: Rèn luyện 
 kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác
- Bản thân: Luôn tích cực nghiên cứu tài liệu để đưa các trò chơi dân gian lồng ghép vào hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Đồng thời, tôi tích cực tham gia vào các phong trào do trường, ngành tổ chức như: Tổ chức cho trẻ tham gia hội chợ quê, thi “ Giai điệu tuổi hồng” vì vậy bước đầu tôi đã xác định được nội dung dạy trẻ những kỹ năng sống cơ bản.
- Với trẻ:Trẻ thông minh nhanh nhẹn, tích cực tham gia các hoạt động và chương trình do cô giáo tổ chức.
2/Khó khăn
- Nhà trường: Do điều kiện cơ sở vật chất để dạy trẻ thực hành hành vi lễ giáo, liên hệ thực tế còn chưa đầy đủ nên việc giáo dục chỉ dừng lại ở cung cấp kiến thức cho trẻ.
- Phụ huynh: Đa số các bậc phụ huynh luôn nóng vội trong việc dạy con, do đó, khi trẻ về nhà mà chưa biết đọc, biết viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá. Một số khác lại chiều chuộng con cái khiến trẻ không có kỹ năng tự phục vụ, một số cha mẹ lại bỏ bê, không quan tâm, chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng đó hay không?
- Đa số trẻ không được dạy dỗ hướng dẫn cụ thể về các kỹ năng vượt qua thử thách, kỹ năng giải quyết vấn đề, ra quyết định vì thế khi gặp những vấn đề khó khăn trẻ không biết cách giải quyết.
- Trẻ: Số lượng trẻ trong lớp đông nên việc uốn nắn hành vi, cử chỉ của từng trẻ cũng là vấn đề khó khăn.
III/ Các biện pháp thực hiện
1/Biện pháp 1: Tự nghiên cứu để có nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kỹ năng sống 
- Quan sát, trò chuyện thường xuyên với trẻ và lập bảng thống kê để chứng minh rằng trẻ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng, sẵn sàng và có khả năng tập trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất. 
- Dựa vào kế hoạch năm học của nhà trường, mục tiêu cần đạt được cuối độ tuổi để xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ ở lứa tuổi mầm non. Đối với tâm sinh lý trẻ em 5 tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học lớp 1. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học là chính là những kỹ năng sống như: Biết hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Từ đó xác định được các kỹ năng sống cơ bản phù hợp với lứa tuổi để lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ 
+ Kỹ năng sống tự tin :Phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. 
+ Kỹ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát để giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. 
+ Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được. 
+ Kỹ năng giao tiếp: Dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ. 
+ Kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất, biết tự cất dọn bát, thìa đúng chỗ hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp nhà cửa... không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
2./Biện pháp 2: Xác định nhiệm vụ cơ bản trong việc dạy trẻ kỹ năng sống
-Trao đổi với các thành viên trong tổ và xin ý kiến đóng góp chỉ đạo của Ban giám hiệu để xác định mục tiêu độ tuổi, kết quả mong đợi phù hợp với tiềm năng phát triển của trẻ và xây dựng kế hoạch năm học phù hợp với nội dung chương trình và điều kiện thực tế tại địa phương.
-Thực hiện tốt việc tổ chức các họat động nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ theo thời gian biểu của nhà trường đã đưa ra.
- Nghiên cứu về các kỹ năng làm việc với cha mẹ, tạo cơ hội phối hợp nhất quán với gia đình để dạy trẻ kỹ năng sống đạt hiệu quả. 
- Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
- Khuyến khích trẻ diễn đạt được ý định của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vỡ những hành vi không đẹp của trẻ. 
- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà.
3. Biện pháp 3: Tạo môi trừơng học tập để dạy trẻ kỹ năng sống
- Xây dựng môi trường mở cho với các góc chơi mới và nhiều sáng tạo cho trẻ -Tại các góc chơi đều có “Nội quy góc chơi” riêng.Yêu cầu khi trẻ chơi góc phải thực hiện đúng theo nội quy từ đó hình thành cho trẻ ý thức thực hiện nghĩa vụ một cách sơ đẳng nhất.
Hình ảnh các góc mở thực hành các kỹ năng sống
- Tích cực xây dựng thư viện cho trẻ tại nhóm, lớp. Khuyến khích các bậc cha mẹ tăng cừơng đọc sách cho trẻ nghe. Để duy trì, bổ sung nhu cầu đọc sách của trẻ, tôi cũng vận động cha mẹ thừơng xuyên tặng sách cho góc thư viện của trẻ tại, tại lớp và ngay ở gia đình.
Trẻ đang chơi trong góc thư viện
-Tập trung trang trí góc dân gian để kích thích trẻ thể hiện năng khiếu nhằm phát hiện năng khiếu, phát triển tài năng; phát động phong trào sáng tác bài hát, điệu múa thể loại dân ca, làm đồ chơi dân gian, thiết kế trang phục văn nghệ
Trẻ đang chơi “Ô ăn quan” trong góc dân gian
-Trang trí môi trừơng với các khẩu hiệu nhắc nhở người lớn phải gương mẫu như: “Yêu thương, tôn trọng trẻ, giữ lời hứa với trẻ”; “Bé học cách quan tâm tới mọi người” bằng các hình ảnh ngộ nghĩnh, màu sắc hài hoà, ấn tượngtừ đó giúp trẻ tự điều chỉnh hành vi, giúp trẻ thể hiện bản thân và luôn biết giữ gìn, là điều kiện để khen ngợi sự cố gắng của trẻ.
4./ Biện pháp 4: Tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. 
a. Giáo dục trẻ kỹ năng tự nhận thức: Tự nhận thức là trẻ tự nhận diện về bản thân, phát triển quan niệm tích cực về bản thân. Trẻ nhận thức về sự khác nhau giữa các trẻ, nhận thức được mỗi cá nhân có điểm riêng biệt cần được tôn trọng, phát triển những suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ. 
Tự nhận thức là khả năng hiểu biết, biết mình là ai, sống trong hoàn cảnh nào, yêu thích điều gì, ghét điều gì, điểm mạnh, điểm yếu ra sao, mình có thể thành công trong lĩnh vực nàoTừ đó trẻ nhận ra được năng lực, sở trường của bản thân để kết nối chúng vào lĩnh vực có liên quan và phát huy chúng một cách tối đa. Nhận ra điểm yếu của bản thân giúp trẻ lường trước được những khó khăn, thách thức trong cuộc sống vì vậy chủ động tìm cách khắc phục những thiếu sót. 
Để hình thành kỹ năng tự nhận thức tôi chú trọng giúp trẻ tìm hiểu bản thân thông qua các câu hỏi như: Con tên là gì? Con có những đặc điểm gì khác với các bạn? Con thích cái gì và không thích cái gì? Con đã làm tốt những việc gì và chưa làm tốt việc gì? Con mong muốn điều gì?Con có những thuận lợi gì để thực hiện mong muốn ấy? Khi thực hiện mong muốn ấy con đã gặp phải những khó khăn gì?...Ngoài ra tôi còn tổ chức cho trẻ chơi theo nhóm để tìm hiểu thêm về sở thích của mình cũng như của bạn.
VD: Cho trẻ chơi theo nhóm trong giờ học tìm hiểu , khám phát về bản thân 
Cho trẻ tự ngồi thành 3 nhóm, cùng tìm hiểu về những gì bạn thích và không thích, sau đó lựa chọn các hình ảnh phù hợp trong họa báo rồi cắt và dán vào bảng. Từ đó giúp trẻ hiểu về bản thân cũng như bạn khác hơn. 
Ngoài ra tôi còn tích cực tổ chức các hoạt động phát triển tự nhận thức cho trẻ như: Cho trẻ soi gương khi cho trẻ tìm hiểu về đặc điểm của bản thân, sự khác biệt giữa mình và bạn, cho trẻ chơi trò chơi “ gọi tên và dấu hiệu cơ thể”, làm các quyển sách, truyện tự tạo để trẻ kể chuyện theo tranh về ý thức bản thân
b.Giáo dục trẻ phát triển kỹ năng quan hệ xã hội: Kỹ năng quan hệ xã hội của một cá nhân là cách tạo quan hệ và tương tác cũng như cảm giác thoải mái mà người đó có khi đồng hành cùng một người hoặc một nhóm người khác. Phát triển kỹ năng này giúp trẻ biết điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với hoàn cảnh. 
 Vì vậy trẻ cần được dạy cách hợp tác với người khác khi làm việc theo nhóm, cách chia sể luân phiên và học cách cư xử lịch thiệp và tôn trọng người khác bằng cách lắng nghe quan điểm của người khác, chấp nhận sự khác biết và quyết định một cách cân bằng. Với 3 nội dung cần thiết để phát triển các kỹ năng quan hệ xã hội đó là :
 Trẻ học cách kiểm soát những cảm xúc của riêng mình .
 Trẻ đối mặt với những kinh nghiệm giải quyết vấn đề.
Trẻ tham gia vào các mối quan hệ với trẻ khác.
Tôi đã đưa ra các cách rèn luyện phù hợp cho trẻ :
+ Giáo viên là hình mẫu cho những gì mình nói và làm : nếu giáo viên là hình mẫu của những hành vi cư xử lịch thiệp thể hiện sự nhận thức về nhu cầu của người khác, cân nhắc cẩn thận mọi hành động, lời nói của mình thì trẻ sẽ phát triển những kỹ năng và thái độ như vậy.
+ Nắm bắt các cơ hội có thể dạy được cảm xúc của chính mình và khuyến khích hành vi phù hợp. VD khi trẻ xung đột, không đồng ý với nhau đầu tiên cô phải là cầu nối để giúp trẻ biểu lộ cảm xúc của mình và biết lắng nghe ý kiến của những trẻ khác, phân tích và hướng cho trẻ tìm ra các giải quyết các xung đột đó.	
+ Tạo bầu không khí tích cực và ấm áp cho trẻ lắng nghe, tôn trọng, hiểu trẻ, thân thiện. Tôi luôn tham gia vào các trò chơi bằng cách ủng hộ ý tưởng của trẻ, luôn trò chuyện với trẻ tao ra những tình cảm tích cực trong trẻ.
+ Khuyến khích trẻ bày tỏ cảm xúc của mình một cách tự do và chân thành, không bị chế giễu.
 VD: Tổ chức cho trẻ chơi trò chơi “ Điệu nhảy tình bạn” , “Những người bạn lớn của chúng ta”, “tôi không thể nhìn thấy”.
Trò chơi “Điệu nhảy tình bạn”
+ Tạo điều kiện cho trẻ chơi và làm việc với trẻ khác trong hoạt động nhóm thông qua hoạt động chơi đóng vai . Đây là cơ hội cho trẻ thử các vai trong cuộc sống. Khi đóng vai trẻ sẽ hòa nhập hơn, học theo cách chỉ dẫn của trẻ khác, vai người ra lệnh, người nhận lệnh, giải quyết các xung đột cá nhân tất cả đều do trò chơi tự phát.
Lập bảng đánh giá ghi lại tất cả hành vi của trẻ để từ đó giúp đỡ trẻ:
Bảng kiểm tra các kỹ năng hợp tác
Tên trẻ:..	
Ngày..tháng..năm.
Biểu hiện
Thường xuyên
Thỉnh Thoảng
Không
Ghi chú
Chơi một mình
Chơi một mình nhưng bên cạnh có trẻ khác 
Tìm kiếm trẻ khác chơi chung hoặc tham gia vào một nhóm
Tham gia vào trò chơi mà không gặp trở ngại gì
Luân phiên đóng vai, sử dụng đồ chơi, dụng cụ
Chờ đến lượt không tranh giành
Sử dụng đồ chơi, vật liệu, dụng cụ
Tự giải quyết các xung đột cá nhân
c.Giáo dục trẻ hình thành sự tự tin: Tự tin là một đức tính chỉ có thể có được nhờ vào rèn luyện và học hỏi. Sự tụ tin lớn dần lên nhờ vào cảm giác được yêu thương, tôn trọng và thấy mình có giá trị. Mỗi khi trẻ có cảm giác thành công, sự tự tin lại lớn dần lên.
Tự tin là mạnh dạn không sợ nói trước đông người.
Tự tin là dám làm điều mình nghĩ.
Tự tin là bày tỏ cảm xúc của mình với người khác mà không e ngại .
	Để phát triển sự tự tin ở trẻ cần phải:
- Tôn trọng trẻ, giúp trẻ xây dựng hình tượng tốt của chính mình : Tôn trọng trẻ không phân biệt thời gian, địa điểm, có ưu điểm hay khuyết điểm. nên cổ vũ thích đáng khả năng của trẻ ở mọi lúc mọi nơi nhằm nâng cao sự tự tin của trẻ.
- Nói cho trẻ

File đính kèm:

  • docgiaoducmaugiaolona4hoangyenphuongmndangxa_212202016.doc
Giáo Án Liên Quan