Hướng dẫn học sinh giải các bài tập định lượng - Phần chuyển động (Vật lí 8)

Môn Vật lí có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của trường THCS . Nó có mối quan hệ chặt chẽ, qua lại với các môn học khác, là cầu nối quan trọng giữa kiến thức vật lí sơ đẳng ở tiểu học, đồng thời là kiến thức cơ sở cho chương trình Vật lí ở THPT, THCN, nghề,. việc giảng dạy vật lí có những khả năng to lớn, góp phần hình thành và rèn luyện ở học sinh cách thức tư duy và làm việc khoa học, cũng như góp phần giáo dục học sinh ý thức, thái độ, trách nhiệm đối với cuộc sống, gia đình, xã hội và môi trường.

Nội dung chương trình SGK mới đã làm thay đổi tích cực phương pháp dạy của giáo viên và phương pháp học của học sinh. Hiệu quả dạy học đã có chuyển biến rõ rệt.

Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, và thực hiện giáo viên-người trực tiếp đứng lớp cũng gặp không ít khó khăn. Phương pháp dạy học tích cự chỉ có hiệu quả cao với những học sinh có học lực khá, giỏi, còn những học sinh có học lực ở mức trung bình trở xuống thì việc thực hiện phương pháp này còn rất hạn chế.

Mặt khác, nội dung chương trình được phân bố chưa thực sự hợp lí, các nội dung lí thuyết rất dài, rất nhiều nhưng các tiết bài tập, nhất là bài tập định lượng lại rất ít.

Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy khả năng giải bài tập vật lí của học sinh còn rất yếu, nhất là các bài tập định lượng. Nếu không có hướng dẫn mà để học sinh tự mầy mò, học tập theo phương pháp mới thì hiệu quả rất thấp.

Đứng trước thực trạng đó, tôi thấy rằng việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh giải bài tập là hết sức cần thiết. Nó giúp học sinh củng cố kiến thức, mở rộng và đào sâu kiến thức, đồng thời rèn lyện cho các em được tính tự lập vượt khó, cẩn thận, kiên trì,. trong học tập.

 

doc15 trang | Chia sẻ: giaoanmamnon | Lượt xem: 5124 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hướng dẫn học sinh giải các bài tập định lượng - Phần chuyển động (Vật lí 8), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A- Đặt vấn đề:
I.:Lí DO CHọN Đề TàI:
Môn Vật lí có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của trường THCS . Nó có mối quan hệ chặt chẽ, qua lại với các môn học khác, là cầu nối quan trọng giữa kiến thức vật lí sơ đẳng ở tiểu học, đồng thời là kiến thức cơ sở cho chương trình Vật lí ở THPT, THCN, nghề,... việc giảng dạy vật lí có những khả năng to lớn, góp phần hình thành và rèn luyện ở học sinh cách thức tư duy và làm việc khoa học, cũng như góp phần giáo dục học sinh ý thức, thái độ, trách nhiệm đối với cuộc sống, gia đình, xã hội và môi trường.
Nội dung chương trình SGK mới đã làm thay đổi tích cực phương pháp dạy của giáo viên và phương pháp học của học sinh. Hiệu quả dạy học đã có chuyển biến rõ rệt.
Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, và thực hiện giáo viên-người trực tiếp đứng lớp cũng gặp không ít khó khăn. Phương pháp dạy học tích cự chỉ có hiệu quả cao với những học sinh có học lực khá, giỏi, còn những học sinh có học lực ở mức trung bình trở xuống thì việc thực hiện phương pháp này còn rất hạn chế.
Mặt khác, nội dung chương trình được phân bố chưa thực sự hợp lí, các nội dung lí thuyết rất dài, rất nhiều nhưng các tiết bài tập, nhất là bài tập định lượng lại rất ít.
Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy khả năng giải bài tập vật lí của học sinh còn rất yếu, nhất là các bài tập định lượng. Nếu không có hướng dẫn mà để học sinh tự mầy mò, học tập theo phương pháp mới thì hiệu quả rất thấp.
Đứng trước thực trạng đó, tôi thấy rằng việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh giải bài tập là hết sức cần thiết. Nó giúp học sinh củng cố kiến thức, mở rộng và đào sâu kiến thức, đồng thời rèn lyện cho các em được tính tự lập vượt khó, cẩn thận, kiên trì,... trong học tập.
Các bài tập định lượng phần chuyển động – (Vật lí 8) là nội dung rất quan trọng của phần cơ học. Các bài tập ở nội dung này rất nhiều và đa dạng. Do đó trong một tiết học, hay 1 tiết bài tập giáo viên và học sinh không thể giải quyết hết được các dạng toán cơ bản của phần này. 
Hiện nay có nhiều tài liệu viết về phương pháp giải bài tập vật lí, nhưng chủ yếu viết dưới dạng mở hoặc viết theo chủ đề nên khi đọc, tìm hiểu, học sinh khó tiếp thu, hiểu quả vận dụng còn thấp. Do đó khi giải bài tập học sinh trình bày rất sơ sài, không tuân theo các bước giải 1 bài tập vật lí.
Vậy làm thế nào để khắc phục được vấn đề trên?
Từ những lí do trên tôi chọn đề tài: “Hướng dẫn học sinh giải các tập định lượng” – Phần chuyển động – Vật lí 8.
II. Mục đích của đề tài:
Nhằm xác định thực trạng của việc giải các bài tập định lượng phần chuyển động môn Vật lí 8 của học sinh trường THCS Nghĩa Đồng-Tân Kỳ, nguyên nhân của thực trạng đó và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phần này.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Phương pháp giải các bài tập định lượng môn Vật lí THCS.
IV. Nhiệm vụ của đề tài:
- Tìm hiểu cơ sở lí luận của đề tài
- Xác định thực trạng của việc dạy học phần bài tập định lượng môn Vật lí THCS.
- Xác định nguyên nhân của thực trạng. 
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Vật lí 8- thcs.
V. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện với học sinh khối 8 trường THCS Nghĩa Đồng-Tân Kỳ trong năm học 2008-2009.
VI. Các phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu lí thuyết: Phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá.
- Nghiên cứu thực tiễn: Dự giờ, thăm lớp, trọng tâm là nghiên cứu thực nghiệm.
B- Nội dung:
I. Cơ sở lí luận:
1. Mục đích của việc giải các bài tập định lượng trong vật lí:
- Bài tập vật lí giúp học sinh ôn tập, đào sâu, mở rộng kiến thức.
- Bài tập vật lí có thể là điểm khởi đầu để dẫn đến kiến thức mới.
- Giải bài tập vật lí rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, vận dung lí thuyết vào thực tiễn, rèn luyện thói quen vận dụng kiến thức khái quát.
- Giải bài tập là một trong những hình thức làm việc tự học cao của học sinh.
- Giải bài tập góp phần phát triển tư duy sáng tạo của học sinh.
- Giải bài tập vật lí là một phương tiện để kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức của học sinh.
2. Phân loại bài tập vật lí:
Có nhiều cách phân loại bài tập vật lí nhưng chủ yếu theo 2 khía cạnh sau:
- Phân loại theo nội dung vật lí: Như bài tập cơ, quang, điện, nhiệt,...
- Phân loại theo dấu hiệu chủ yếu, ý nghĩa, vai trò: bài tập định tính, bài tập định lượng, bài tập thí nghiệm, bài tập có nội dung thực tế, bài tập vật lí vui, bài tập trắc nghiệm, bài tập tổng hợp,...
 * Bài tập định lượng là loại bài tập có số liệu cụ thể, muốn giải được phải thực hiện một loạt các phép tính. Loại bài tập này giúp học sinh hiểu được đầy đủ và sâu sắc hơn ý nghĩa vật lí,rèn luyện kĩ năng tính toán, vẽ hình, tiến tới giải các bài tập tổng hợp có nhiều nội dung phức tạp hơn.
II. Thực trạng của việc dạy học các bT định lượng môn vật lí THCS:
Với chương trình sách giáo khoa hiện nay, kiến thức rất tinh giản, sâu và rộng, chủ yếu viết dưới dạng mở. Do đó đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức vững, có phương pháp dạy học tích cực sáng tạo, tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức một cách tốt nhất, học sinh cũng phải có phương pháp học tập tích cực, chủ động mới nắm vững nội dung bài học. 
Cùng với sự thay đổi nội dung chương trình thì việc đổi mới phương pháp dạy học đã có nhiều chuyển biến tích cực. Giáo viên chủ yếu từ phương pháp dạy học truyền đạt thông tin sang phương pháp dạy học tích cực. Tổ chức học sinh chủ động học tập tự lĩnh hội kiến thức. Học sinh từ học tập thụ động đã chuyển sang chủ động lĩnh hội kiến thức dưới sự điều khiển của giáo viên.
Tuy nhiên trong việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm còn rất nhiều hạn chế. Đặc biệt là việc dạy học các tiết bài tập định lượng.
1. Về phía giáo viên:
Chưa nhuần nhuyễn trong vận dụng phương pháp dạy một tiếti bài tập, dẫn đến học sinh khi học và giải bài tập vật lí còn thụ động. Chưa khai thác hết khả năng của học sinh. Đồng thời không khai thác hết các đối tượng học tập trong một lớp.
2. Về phía học sinh: 
- Còn nhiều học sinh không nắm vững kiến thức, kể cả kiến thức đã học ở lớp dưới, kiến thức toán học còn yếu. trong khi chữa bài tập thì thờ ơ, không chú ý, do đó các bước cơ bản để giải một bài tập vật lí cũng không thực hiện được như: cách viết tóm tắt bài toán, cách đổi đơn vị, tìm các công thức để áp dụng,....
3. Về phía nội dung chương trình:
Vì chương trình viết sách theo dạng mở để tăng khả năng tự học của học sinh, do đó số tiết bài tập theo phân phối chương trình rất ít. Đặc biệt ở Vật lí 8, các bài tập định lượng đã chiếm một phần rất lớn kiến thức nhưng cả năm chỉ có 2 tiết bài tập và 3 tiết ôn tập. Đó cũng là ưu điểm nhưng cũng là tồn tại của chương trình mới.
- Những học sinh có học lực khá, giỏi trở lên học tập tích cực chủ động tìm tòi kiến thức thì hiệu quả được nâng cao.
- Những học sinh đại trà, những học sinh có học lực ở mức trung bình trở xuống thì khả năng tự tìm tòi, đầu tư lại rất hạn chế, thậm chí nhiều em không hề tự học, tự làm bài tập ở nhà cho nên chất lượng văn hoá của những học sinh này không những không có tiến bộ mà còn giảm xuống.
Do đó dạy học sinh giải các bài tập định lượng- phần chuyển động môn vật lí 8 là một nội dung hết sức cần thiết, nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn nói chung và môn vật lí 8 nói riêng. Khuôn khổ để thực hiện nội dung này là trong một buổi học theo chủ đề tự chọn, học đại trà (khoảng 3-4 tiết)
4. Kết quả thực trạng:
Sau khi học xong phần chuyển động cơ học, để kiểm tra kĩ năng, phương pháp giải một bài tập vật lí tôi đã làm một bài kiểm tra cho cả khối 8 để khảo sát. Kết quả khảo sát như sau:
TT
Lớp
Sĩ số
Điểm
Giỏi
Khá
TB
Yếu-kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
1
8A
40
1
2.5%
9
22.5%
18
45.0%
12
30.0%
2
8B
43
2
4.7%
10
23.3%
21
48.8%
10
23.3%
3
8C
41
0
0.0%
8
19.5%
19
46.3%
14
34.1%
4
8D
44
1
2.3%
9
20.5%
24
54.5%
10
22.7%
5
8E
43
1
2.3%
9
20.9%
21
48.8%
12
27.9%
6
8G
40
1
2.5%
8
20.0%
18
45.0%
13
32.5%
7
8H
42
1
2.4%
10
23.8%
18
42.9%
13
31.0%
Tổng
293
7
2.4%
63
21.5%
139
47.4%
84
28.7%
 Qua kết qủa khảo sát cho thấy số học sinh đạt khá giỏi còn ít, số học sinh đạt trung bình, yếu kém còn nhiều. Từ đó ta thấy được khả năng giải bài tập và khả năng vận dụng kiến thức của học sinh chưa chắc chắn.
III. Các giải pháp đã thực hiện:
1. Trước hết muốn hướng dẫn học sinh giải tốt các bài tập vật lí người giáo viên phải xây dựng cho mình một số nhiệm vụ sau:
- Phải nghiên cứu lí luận dạy học về bài tập và giải bài tập, lựa chọn hệ thống bài tập từ cơ bản đến phức tạp, các kiến thức toán lí phải phù hợp với trình độ học sinh, số lượng bài tập phải phù hợp với thời gian.
- Phải phân tích thật kĩ kiến thức trong SGK và các kiến thức có liên quan đến phần bài tập mà bài tập đó yêu cầu.
- Phải tìm hiểu kĩ, vận dụng linh hoạt vào việc lĩnh hội kiến thức của học sinh trong địa bàn mình công tác. Giáo viên phải biết những điểm yếu nhất của học sinh khi giải bài tập là gì?
2. Giáo viên cần phải nắm chắc phương pháp giải bài tập vật lí-bài tập định lượng:
- Trước hết phải tìm hểu đề bài.
- Xem xét hiện tượng vật lí được đề cập vào dựa vào kiến thức nào, toán học nào để tìm mối quan hệ có thể có của cái đã cho và cái cần phải tìm, sao cho có thể tìm thấy mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với đơn vị đã cho.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh các hoạt động chính của việc giải bài tập vật lí:
+ Tìm hiểu đề bài
+ Phân tích hiện tượng
+ Xây dựng lập luận
+ Biện luận
* Xây dựng lập luận trong giải bài tập: Là một bước hết sức quan trọng , đòi hỏi học sinh phải vận dụng những định luật vật lí, những quy tắc, những công thức để thiết lập mối quan hệ giữa đại lượng cần tìm.
3. Xây dựng các bước giải.
Như vậy để giải một bài tập vật lí – bài tập định lượng cần hướng dẫn học sinh thực hiện những bước cơ bản sau đây:
Bước 1: Đọc hiểu đề bài, viết tóm tắt các dự kiện
- Dùng kí hiệu để tóm tắt đề bài (cho gì? hỏi gì?), thống nhất đơn vị, dùng hình vẽ để mô tả lại, minh họa (nếu cần).
Bước 2: Phân tích nội dung làm sáng tỏ bản chất vật lí, xác lập mối liên hệ của các dự kiện có liên quan tới công thức nào của các dự kiện xuất phát và rút ra cái cần tìm, xác định phương hướng và vạch ra kế hoạch giải.
Bước 3: Chọn công thức thích hợp, kế hoạch giải, thiết lập các phương trình nếu cần.
Bước 4: Lựa chọn cách giải cho phù hợp, tôn trọng trình tự, phải theo để thực hiện các chi tiết của dự kiện nhất là khi gặp những bài tập phức tạp. Thực hiện cẩn thận các phép tính.
Bước 5: Kiểm tra, xác nhận kết quả và biện luận .
Từ cách phân tích 5 bước để giải bài tập ta có thể tóm tắt các bước giải theo sơ đồ sau:
Bài tập vật lí	
Kế hoạch giải
Dự kiện
tóm tắt
Kiểm tra-đánh giá-biện luận
Cách giải
Chọn công thức
Cho gì?-Vẽ
Hỏi gì?
Hiện tượng-Nội dung
Bản chất vật lí
 4 .tổ chức thực hiện:
4.1. Cung cấp các kiến thức cần nhớ và xây dựng kiến thức mới có liên quan.
Tổ chức học sinh nêu các công thức vận tốc của chuyển động đều, công thức tính vận tốc trung bình của chuyển động không đều, nêu tên và đơn vị các đại lượng trong công thức đó và bài toán liên quan.
a, Công thức tính vận tốc của chuyển động đều:
Trong đó: v: Vận tốc của chuyển động đều, đơn vị m/s và km/h.
 S: Quãng đường đi được, đơn vị m-km
 t: Thời gian đi hết quãng đường đó, đơn vị giây(s)- giờ(h)
Từ công thức trên giáo viên gợi ý để học sinh tìm công thức tính thời gian và công thức tính quãng đường của chuyển động đều:
- Công thức tính thời gian của chuyển động đều:
- Công thức tính quãng đường của chuyển động đều là: S=v.t
b. Công thức tính vận tốc trung bình của chuyển động không đều:
Với S là tổng quãng đường mà vật đi được.
 t là tổng thời gian mà vật đi hết quãng đường trên.
c, Bài toán 2 vật gặp nhau:
- Nếu 2 vật chuyển động ngược chiều: Khi gặp nhau, tổng quãng đường các vật đã đi bằng khoảng cách ban đầu giữa 2 vật.
S = S1 + S2
- Nếu 2 vật chuyển động cùng chiều: Khi gặp nhau hiệu quãng đường các vật đã đi bằng khoảng cách ban đầu giữa 2 vật: S = S1 – S2
d, Chuyển động của canô (Vcn) và dòng nước (Vdn) :
V xuôi dòng = Vcn + Vdn
V ngược dòng = Vcn - Vdn 
 S = vx. tx = vn. tn
Sau khi thực hiện bước này học sinh vừa củng cố, hoàn thiện, đồng thời có kiến thức mới để giải bài tập một cách linh hoạt hơn.
4.2. Bài toán vận dụng:
a. Dạng.1: Bài toán vận tốc, thời gian và quãng đường của chuyển động đều:
VD1: (Bài 2.3 trang 5 – SBT Vật lí 8):
Một ô tô khởi hành từ Hà Nội lúc 8h, đến Hải Phòng lúc 10 h. Cho biết đường Hà Nội – Hải phòng dài 100km. Tính vận tốc ô tô ra km/h và m/s.
Giáo viên hướng dẫn qua các bước sau:
Bước 1: Phân tích bài toán:
Bài toán vận dụng công thức nào để giải?
Bài toán cho biết các đại lượng nào? Cần tìm đại lượng nào? Các đơn vị đã thống nhất chưa?
Cho học sinh giải bài toán theo các bước:
- Tóm tắt bài toán:
Bước 2: 
Giải:
Thời gian ô tô chuyển động là: t = 10-8=2h.
Vận tốc ô tô: 
Vận tốc ô tô tính ra m/s: v=50 km/h = 50000m/3600s 13,89 m/s.
(Gv có thể hướng dẫn hs tính vận tốc ra m/s, bằng cách đổi đơn vị quãng đường ra mét và đơn vị thời gian ra giây sau đó dùng công thức tính vận tốc để tính)
*VD2: (Bài 2.5 trang 5-SBT Vật lí 8): Hai người đạp xe, người thứ nhất đi quãng đường 300m hết 1 phút. Người thứ 2 đi quãng đường 7,5km hết 0,5h.
a, Người nào đi nhanh hơn?
 b, Nếu 2 người cùng khởi hành 1 lúc, xuất phát cùng một vị trí và đi cùng chiều thì sau 20 phút, hai người cách nhau bao nhiêu km?
* Hướng dẫn: Giáo viên hướng dẫn bằng các gợi ý sau:
- Muốn biết người nào (vật nào) đi nhanh hơn ta so sánh đại lượng nào? Vậy áp dụng công thức nào để giải ?
- Bài toán đã cho biết những đại lượng nào? các đơn vị của các đại lượng trong bài toán đã thống nhất chưa? Ta nên dùng đơn vị vận tốc nào?
Muốn biết khoảng cách của 2 người sau cùng một thời gian ta dùng công thức nào?
Giáo viên cho học sinh tóm tắt bài toán:
Tóm tắt:
S1 = 300m= 0,3km; S2 = 7,5km
t1 = 1 phút = 1/60h; t2 = 0,5h; t = 20ph = 1/3h. 
a, So sánh v1 và v2 (để biết người nào chuyển động nhanh hơn? )
b, S = ?
* Tổ chức cho học sinh giải: 
a, Vận tốc người thứ nhất: 
Vận tốc người thứ hai: 
Ta thấy v1>v2 nên người thứ nhất chuyển động nhanh hơn người thứ 2.
b, Quãng đường người thứ nhất đi được trong 20 phút (1/3h) là: 
S’1=v1.t = 18.1/3 = 6(km).
Quãng đường người 2 đi được trong 20 phút là:
S’2=v2.t = 15.1/3 = 5 (km)
Sau 20 phút người thứ nhất đi xa hơn người một khoảng:
S= S1’- S2’= 6- 5 = 1Km.
b. Dạng2: Bài toán tính vận tốc trung bình của chuyển động không đều:
VD3:( Bài 3.6 tr. 7 SBT vật lí 8) :Một vận động viên môn xe đạp đã thực hiện cuộc đua vượt đèo như sau ( hình vẽ).
Quãng đường từ A đến B dài 45 km đi hết 2 h 15 phút.
Quãng đường từ B đến C dài 30 km đi hết trong 24 phút.
Quãng đường từ Cđến D dài 10 km đi hết trong 1/4 giờ.
Hãy tính:
a, Vận tốc trung bình trên mỗi quãng đường.
b, Vận tốc trung bình trên cả đoạn đường đua.
 B
 C D
 A xuất phát đích
 *GV Hướng dẫn hs giải bài toán bằng các gợi ý sau:
- Bài này áp dụng công thức nào để giải? Nên dùng đơn vị vận tốc là gì?
- Vận tốc trung bình trên mỗi đoạn là như nhau hay khác nhau?
-Vận tốc trung bình trên cả đoạn đường có bằng trung bình cộng của các vận tốc trung bình không?
(Gv gợi ý để hs thống nhất đơn vị độ dài và đơn vị thời gian để đơn vị vận tốc là km/h)
-Giáo viên cho học sinh tóm tắt bài toán.
-Giải: Tổ chức học sinh giải theo các gợi ý trên:
a, 
b, Vận tốc trung bình của vận động viên trên cả chặng đường đua:
*Lưu ý: Dạng bài toán này tuyệt đối không dùng công thức 
vtb = 
*VD4: (Bài 3.7 trang 7-SBT vật lí 8)
Một người đi xe đạp đi nửa quảng đường đầu với vận tốc v1 =12km/h, nửa còn lại với vận tốc v2 nào đó. Biết vận tốc trung bình trên cả quãng đường là 8km/h. Hãy tính vận tốc v2?
* Hướng dẫn: Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ để hình dung quá trình chuyển động của người đi xe đạp: 
 A s/2 s/2 B 
 v1	v2	
Học sinh nhìn thấy được:
+1/2 quãng đường đầu đi với vận tốc v1 và thời gian là t1
+1/2 quãng đường sau đi với vận tốc v2 và thời gian là t2.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tính thời gian theo quãng đường để khi tính vận tốc trung bình, đại lượng quãng đường sẽ bị triệt tiêu.
 + GV cho HS tóm tắt bài toán:
* Tổ chức HS giải bài toán:
Gọi t1 là thời gian đi hết nửa quãng đường đầu với vận tốc v1,
 t2 là thời gian đi hết nửa quãng đường sau với vận tốc v2
 t là thời gian đi hết toàn bộ quãng đường trên, ta có:
Vậy vận tốc trung bình trên cả đoạn đường là:
 (*) 
Biết: v1 = 12 km/h và vtb = 8(km/h)
Giải (*) ta tìm được v2 = 6(km/h).
c. Dạng3: Bài toán gặp nhau:
VD5: 
Hai vật xuất phát từ A và B cách nhau 400m, chuyển động cùng chiều theo hướng từ A đến B. Vật thứ nhất chuyển động từ A đến B với vận tốc 36km/h, vật thứ 2 chuyển động đều từ B với vận tốc 18 km/h. Sau bao lâu hai vật gặp nhau? Gặp nhau ở chỗ nào?
* Hướng dẫn:
- Vận dụng bài toán 2 vật gặp nhau khi 2 vật đó cùng chiều khi gặp nhau thì: S1 – S2 = S
- Vận dụng thức của chuyển động đều, áp dụng cho từng trường hợp. Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ để hình dung quá trình chuyển động của 2 vật:
 S S2
 vật 1 vật 2
 A B C (chỗ gặp nhau)
 S1
Bài giải: 
Gọi v1 và v2 là vận tốc của chuyển động từ A đến B:
v1 = 36 km/h = 10m/s: v2 = 18 km/h = 5m/s
Ta có: S1 = v1.t và S2=v2.t
Khi 2 vật gặp nhau: S1- S2 = S = 400m
(s)
Vị trí gặp nhau: s1 = v1.t = 10.80 = 800m
Vậy sau 80s thì 2 vật gặp nhau. Vị trí gặp nhau cách 800m
 d. Dạng 4: Chuyển động của vật (Ca nô trên dòng nước chảy).
VD6: Hai bến sông A và B cách nhau 36km, dòng nước chảy theo hướng từ A đến B với vận tốc 4km/h. Một ca nô chuyển động đều từ A về B hết 1 giờ. Hỏi ca nô đi ngược từ A về B trong bao lâu?
* Hướng dẫn: Tìm mối quan hệ giữa vận tốc của ca nô khi nước yên lặng, mà vận tốc thực của ca nô khi xuôi dòng và khi ngược dòng.
- Dùng các công thức về chuyển động đều để giải bài toán
Giải:
Gọi v là vận tốc ca nô khi nước yên lặng. Khi xuôi dòng thì vận tốc của ca nô là v+4(km/h). Ta có
S = AB = (v+4).t => v + 4 = 
=> v = - 4
Với S = 36km, t = 1h => v = 
Khi ngược dòng vận tốc thực của ca nô là: 
v’ = v – 4 = 32 - 4 = 28 (km/h).
Thời gian của ca nô chuyển động ngược dòng:
t’ = 
VD 7: Một ca nô chạy từ bến A đến bến B rồi trở lại bến A trên một dòng sông. Hỏi nước sông chảy nhanh hay chạy chậm thì vận tốc trung bình của ca nô trong suốt thời gian cả đi lẫn về sẽ lớn hơn? (Coi vận tốc của ca nô so với vận tốc dòng nước có độ lớn không đổi).
 A B 
 Vxuôi Vngược
Hướng dẫn: 
- Từ sơ đồ trên hướng dẫn học sinh tìm được mối quan hệ giữa 3 vận tốc:
v xuôi = vCN + vdn
v ngược = vCN - vdn
- Từ đó tìm mối quan hệ giữa v, t để tính được vTB
Bài giải:
Gọi v là vận tốc của ca nô khi nước yên lặng
vn là vận tốc của dòng nước (v>vn)
S là quãng đường từ A đến B
t1 là thời gian ca nô đi từ A đến B
t2 là thời gian ca nô đi từ B đến A
Ta có:
=> t = t1 + t2 = 
Vậy vtb = 
Kết quả trên cho thấy vận tốc trung bình phụ thuộc vào Vn (vận tốc dòng nước) .Nếu Vn càng nhỏ thì v2-vn2 càng lớn.
Vậy Vtb của canô cả đi lẫn về càng tăng khi vận tốc dòng nước càng nhỏ.
iv. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua việc hướng dẫn học sinh giải các bài tập vật lí theo một trình tự nhất định, nội dung từ dễ đến khó và áp dụng cụ thể vào nội dung bồi dưỡng đại trà vật lí 8 với 7 ví dụ trên, tôi thấy khả năng giải các bài tập vật lí của học sinh được nâng lên rõ rệt.
Đa số học sinh biết vận dụng kiến thức cơ bản để giải bài tập. Nhiều học sinh đã linh hoạt hơn trong việc giải bài tập định lượng. Khi giải bài tập có định hướng rõ ràng, nắm được cách giải bài tập, biết suy luận để áp dụng công thức cho phù hợp.
Cụ thể, thông qua khảo sát chất lượng học sinh sau khi hướng dẫn học sinh phương pháp giải các bài tập định lượng, phần chuyển động – vật lí 8, tôi thu được kết quả như sau:
Lớp
Tổng số HS
Giỏi
Khá
TB
Yếu-kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
8A
40
5
12.5%
12
30.0%
18
45.0%
5
12.5%
8B
43
4
9.3%
13
30.2%
20
46.5%
6
14.0%
8C
41
3
7.3%
10
24.4%
23
56.1%
5
12.2%
8D
44
3
6.8%
12
27.3%
23
52.3%
6
13.6%
8E
43
5
11.6%
13
30.2%
19
44.2%
6
14.0%
8G
40
3
7.

File đính kèm:

  • docSKKN VAT LI 8.doc
Giáo Án Liên Quan