Khái quát nét đẹp tranh dân gian Đông Hồ trong dạy học mỹ thuật cho học sinh phổ thông

Tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam luôn gắn bó và in đậm dấu ấn trong cuộc sống tinh cảm của con người Việt Nam. Chủ đề tư tưởng cùng những đặc trưng độc đáo riêng biệt của tranh dân gian là những yếu tố tạo nên giá trị nghệ thuật thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ của người xem.

 Thừa kế những tinh hoa nghệ thuật của tranh dân gian Việt Nam. Ngày nay đã có nhiều hoạ sĩ nghiên cứu, chuyên sâu vào lĩnh vực này đã tạo nên nhiều tác phẩm tranh khắc đẹp được nhiều người yêu thích đồng thời đã góp phần khẳng đinh sức sống và giá trị nghệ thuật của tranh dân gian Việt Nam một loại hình nghệ thuật đâm đà bản sắc văn hoá dân tộc trong thế giới đa dạng về phong cách hội hoạ hiên đại.

 Đặc trưng ngôn ngữ của tranh dân gian là giản dị, chân chất dễ hiểu nhưng lai bao hàm một vẻ đẹp đầy ấn tượng đi vào lòng người nhất là đối với các em lứa tuổi thiếu niên nhi đồng, bởi tinh hồn nhiên, vui tươi, hóm hỉnh, mộc mạc, màu sắc tự nhiên, đường nét hinh khối đơn giản. Xem tranh dân gian các em như tim thấy một tiêng nói chung mang tính cội nguồn, tìm thấy một sự gần gũi dung dị, dễ tiếp cận với mong ước được vẽ và vẽ đẹp.

 Có thể nói, những đặc trưng độc đáo của tranh dân gian sẽ là con đường ngắn và thuận lợi để giáo dục thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh. Trên cơ sở từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, cùng với sự hướng dẫn của giáo viên, tranh dân gian sẽ đóng góp một phần nhỏ vào cái chung trong việc giáo dục nâng cao nhân thức thẩm mĩ nói chung và về hội hoạ nói riêng.

 

doc27 trang | Chia sẻ: giaoanmamnon | Lượt xem: 3915 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khái quát nét đẹp tranh dân gian Đông Hồ trong dạy học mỹ thuật cho học sinh phổ thông, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Phụ lục
 mở đầu 
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
 Nội dung
chương I: Nét đẹp tranh dân gian Đông Hồ.
Khái quát về tranh dân gian Đông Hồ.
Tranh Đông Hồ
Tranh Hàng Trống
Đặc trưng nghệ thuật tranh Dân gian
Tính giáo dục của tranh dân gian
chương II: Vận dụng nét đẹp tranh dân gian Đông Hồ trong dạy học mỹ thuật cho học sinh phổ thông.
Nội dung đề tài tranh dân gian Đông Hồ ảnh hưởng tới tình cảm, nhân cách học sinh.
Nét tương đồng giữa đường nét trong tranh dân gian Đông Hồ với nét vẽ của học sinh lứa tuổi thiếu niên nhi đồng.
Vai trò của người giáo viên trong dạy học Mỹ thuật để phát huy sự sáng tạo của học sinh.
 Chương III Kết luận kiếm nghị
 3.1 Kết luận
 3.2. kiến nghị
tài liệu tham khảo
 Mở đầu
Lý do chon đề tài : 
 Tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam luôn gắn bó và in đậm dấu ấn trong cuộc sống tinh cảm của con người Việt Nam. Chủ đề tư tưởng cùng những đặc trưng độc đáo riêng biệt của tranh dân gian là những yếu tố tạo nên giá trị nghệ thuật thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ của người xem.
 Thừa kế những tinh hoa nghệ thuật của tranh dân gian Việt Nam. Ngày nay đã có nhiều hoạ sĩ nghiên cứu, chuyên sâu vào lĩnh vực này đã tạo nên nhiều tác phẩm tranh khắc đẹp được nhiều người yêu thích đồng thời đã góp phần khẳng đinh sức sống và giá trị nghệ thuật của tranh dân gian Việt Nam một loại hình nghệ thuật đâm đà bản sắc văn hoá dân tộc trong thế giới đa dạng về phong cách hội hoạ hiên đại.
 Đặc trưng ngôn ngữ của tranh dân gian là giản dị, chân chất dễ hiểu nhưng lai bao hàm một vẻ đẹp đầy ấn tượng đi vào lòng người nhất là đối với các em lứa tuổi thiếu niên nhi đồng, bởi tinh hồn nhiên, vui tươi, hóm hỉnh, mộc mạc, màu sắc tự nhiên, đường nét hinh khối đơn giản. Xem tranh dân gian các em như tim thấy một tiêng nói chung mang tính cội nguồn, tìm thấy một sự gần gũi dung dị, dễ tiếp cận với mong ước được vẽ và vẽ đẹp.
 Có thể nói, những đặc trưng độc đáo của tranh dân gian sẽ là con đường ngắn và thuận lợi để giáo dục thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh. Trên cơ sở từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, cùng với sự hướng dẫn của giáo viên, tranh dân gian sẽ đóng góp một phần nhỏ vào cái chung trong việc giáo dục nâng cao nhân thức thẩm mĩ nói chung và về hội hoạ nói riêng.
 Xuất phát từ những suy nghĩ đó tôi mạnh dạn nghiên cứu khoá luận với đề tài”Khái quát nét đẹp tranh dân gian Đông Hồ trong dạy học mỹ thuật cho học sinh phổ thông”.
 Trong khuôn khổ một khoá luận nghiên cứu nhỏ chưa thể đề cập sâu tới vấn đề của tranh dân gian, mong muốn của người thực hiện khoá luận là được đóng góp một vài suy nghĩ từ nét đẹp tranh dân gian Đông Hồ đối với việc giáo dục thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh ở lứa tuổi thiếu niên nhi đồng.
2.Mục đích nghiên cứu: 
-Tìm hiểu nét đẹp trong tranh dân gian Đông Hồ.
 -Vận dụng nét đẹp tranh dân gian Đông Hồ vào dạy học Mỹ thuật ở trường Phổ thông.
3.đối tựơng và pham vi nghiên cứu:
* Đối tượng: Tìm hiểu nét đẹp của tranh dân gian Đông Hồ.
 * Pham vi: Tìm hiểu nét đẹp của tranh dân gian Đông Hồ có sự so sánh đối chiếu và liên hệ của một số tranh thiếu nhi.
4.Nhiêm vụ nghiên cứu:
-Tìm hiểu nét đẹp của tranh dân gian:
 + Nội dung.
 + Bố cục.
 + Hình mảng.
 + Màu sắc.
 -Đưa ra cách khai thác nét đẹp tranh dân gian trong việc giáo dục thẩm mĩ cho học sinh phổ thông.
 5.phương pháp nghiên cứu:
 - Sưu tầm, nghiên cứu tài liệu.
 - Quan sát, liên hệ thực tế.
 -Tổng hợp phân tích, so sánh đối chiếu.
 nội dung
 chương 1: nét đẹp tranh dân gian đông hồ.
 1.1.Khái quát về tranh dân gian.
 Tranh dân gian Việt Nam từ rất xa xưa đã tồn tại thực sự trong đời sống của nhân dân. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945 việc chơi tranh trong ngày tết đã trở thành một phong tục rất mực được tôn trọng, tranh được dùng để trang hoàng nhà cửa, tôn kính tổ tiên, cầu mng những điều tốt đẹp, để giới thiệu cho nhau về những giá trị văn hoá và lịch sử dân tộc. Những tờ tranh ấy đã làm bừng sáng những căn nhà tối thấp, đã mang theo tiếng cười vui đến với mọi nhà và nhát là giúp mọi người như cảm giao với tinh thần, yên tâm có cuộc sống bình an và thịnh vượng.
 Trong cả nước, từ Bắc vào Nam có nhiều nơi lam tranh giân gian như tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống, tranh Kim Hoàng, tranh Làng Sình nhưng có hai vùng nổi tiếng và có truyền thống lâu đời hơn cả là tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống. Trong đề tài này tôi cũng xin đề cập đến hai dòng tranh chủ yếu này.
Tranh Đông Hồ: 
 Tranh Đông Hồ được sản xuất lẻ tẻ ở một số tỉnh Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thái Nguyên, Nghệ An, nhưng truy về gốc đều do người Đông Hồ di cư mang theo nghề đến nơi mới. Nơi sản xuất tập trung là làng Đông Hồ(xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Đây là một làng nhỏ năm ven sông Đuống và trên đường giao thông nối xứ Bắc (Bắc Ninh) với xứ Đông (Hải Dương), chỉ cách Hà Nội chừng 40 km. Vùng đất này trù phú,nông nghiệp phát triển, có nhiều nghề thủ công, đời sống văn hoá cao, lễ hội nhiều và đặc sắc... tất cả đã tạo nên cái nôi, là “bà đỡ”cho một dòng tranh chân quêđậm đà chất dân tộc.
 Gắn với sinh hoạt Tết có tranh-pháo-mã, người làng Đông Hồ làm cả. Hàng mã Đông Hồ từ nhiều thế kỉ trước đã đi vào sử sách, và mười năm qua tưởng chừng đã mai một thì giờ đây đang phục hồi và phát triển đáp ứng nhu cầu tâm linh của đông đảo nhân dân, và cùng là một thứ nghệ thuật tạo hình dân gian, bổ sung và làm hoàn chỉnh thêm cho mảng trannh tết.
 Tranh tết cổ truyền của Đông Hồ là tranh Điệp, từ giấy đến màu đều nhuần chất dân tộc. Giáy để in tranh là giáy dó được sản xuất ở Đồng Cao( Bắc Ninh) và vùng Bưởi( Hà Nội), nó mỏng mịn và có vân óng ả như lụa, lại dai và co dãn khi ẩm ướt. đẻ phát huy mặt tốt và khắc phục mặt yéu của giấy dó, nghệ nhân quét lên nó một lớp điệp làm cho tờ giáy dày nuột, sáng trắng với những thớ sáng tốiđan xen song hành và lấp lánh ánh bạc, có khi con được lướt thêm nước hoa hoè vàng chanh hay nước gỗ vàng đỏ cam, từ nền giấy đã toát ra vẻ vinh hiển. Trên nền giấy ấy, nghệ nhân lần lượt in ván gỗ các mảng màu cạnh nhau và chồng nhau, sau cùng in nét đen to mập, màu và nét phối hợp tạo ra những hình quen thuộc nhưng luôn mới. Bảng màu ở đay cũng là nhưng màu trắng điệp-vàng hoe-đỏ vang, lại thêm màu xanh chàm-sỏi son- than lá tre, toàn những thứ có sẵn trong thiên nhiên, bền trước ánh sáng và thân thuộc với mọi người. Bảng màu áy khá đơn giản nhưng do kỹ thuật pha chế “trăm hay không bằng tay quen” và nghệ thuật phối màu đã tạo ra những hoà sắc phong phú và hài hoà.
 Tranh đông Hồ phổ biến nhất, cũng đặc sặc nhất và do đậm sặc dân gian- dân tộc nhất, được nhân dân nhiều nước ưa thích và tuyển vào những bộ sưu tập tranh quý của nhân loại.
 1.1.2Tranh Hàng Trống
 Tranh Hàng Trống cũng có rất sớm, cho đến trước cách mạng thang tám năm 1945 đựơc bầy bán nhiều phố ở Hàng Trống và các phố lân cận như Hàng Nón- Hnàg Hòm- Hàng Quạt của Hà Nội. Tranh Hàng Trông cũng có một số tranh tiêu biểu như tranh Đông Hồ, nhưng đi sâu vào những bộ Tứ bình về người đẹp (Tố Nữ) và cảnh đẹp (Tứ Quý), minh hoạ các tác phẩm văn học lớn, nhưng đặc biệt đi sâu vào mảng tranh thờ ở các điện miếu, nhất là khai thác các nhân vật trong đạo Mãu của bản địa( Tam toà, Tứ phủ, ông Hoàng, bà Chúa, Cậu Cô). Tranh Hàng Trống chủ yếu là tranh thờ, do đó được bày bán quanh năm, tập trung vào một số dịp lễ Tết.
 Tranh Hàng Trống in trên giấy xuyến chỉ và sau này là giáy báo khổ rộng, chỉ in nét cong tô màu bút lông, màu nhập ngoại là phẩm hoá học tươi. Do kỹ thuật tô bằng tay mà tạo được sự đậm nhạt, vờn đẻ nổi khối nét thanh mảnh và cong mềm và duyên dáng.
 Đối tượng của tranh Hang Trống là tầng lớp thị dân, những người khá giả nên bên cạnh tranh thờ dán ở nơi tôn nghiêm, thì những tranh sinh hoạt thưòng đựơc treo ở những phòng khách tạo một không khí sang trọng.
Đặc trưng nghệ thuật tranh dân gian 
 Tranh dân gian có lịch sử lau dài và thực sự là vốn tạo hình đựoc các thế hệ cả xưa và nay đều thích, nếu chỉ vì giá trị nội dung thì khi xã hội thay đổi nó không thích hợp nữa, do đó phần quan trọng chính là giá trị nghệ thuật. Giá trị này được biểu hiên ở bố cục, ở đường nét, ở bảng màu, ở quan niệm tỉ lệ giữa các hình.
 Tranh dân gian xây dựng các hình ảnh không phụ thuộc vào mẫu trong tự nhiên, mà cốt gây ấn tượng mạnh theo yêu cầu của chủ đề, vì thế cả ánh sáng, không gian, con người và cảnh vật đều là ước lệ. Tờ tranh điệp với nền màu trắng hay vàng đỏ đều thể hiên không gian rực sáng, trong trẻo và rộng rãi. Khong gian ước lệ ấy đòi hỏi mọi hình ở trên cũng phải ước lệ làm săôgị đựoc nhiều nhất, vì thế hình đựoc thể hiện nhìn từ nhiều góc độ, từ nhiều khoảng cách để có thể phô diễn được đầy đủ nhất, chẳng hạn con lợn muốn rõ nhất phải đựoc vẽ ở thế nhìn ngang, nhưng mõm lại như nhìn từ phía trước, cảnh hứng cây dừa được thu nhỏ lại để tương ứng với người trèo và người hứng hoặc cảnhTrạng chuột vinh quy, sau khi đỗ cao cưới vợ, chuột tiến sĩ cưỡi con ngựa cũng chỉ nhấp nhỉnh với nó mà thôi. Tất cả các hình trong tranh đều đựoc đàn ra choán cả mặt tranh, chúng không che khuất nhau mà cùng phơi bày rõ ràng. Từng hình trong tranh đựơc cường điệu có khi đến”ngoa ngoắt”, song đều thu về những hình cơ bản. Ví như bé ôm gà như hình quả trứng, con lơn như hình chữ nhật, các cặp. Đồ vật trong tranh Đánh vật lại chỗ hình tam giác, chỗ hình thang, chỗ nửa hình tròn, các nhân vật trong tranh Hứng dừa và Đánh ghen vừa hài hước vừa táo tợn. Cái thế giới ở trong dân gian gồm đủ cả ba tầng trời-trần và dưói đất, chỉ cần vài chi tiết là gợi ra cái không gian cần cho sự việc xảy ra, điều này được thể hiên rõ nét hơn trong tranh liên hoàn về Thạch Sanh.
 Với bố cục ấy, trừ tranh thờ thì các nhân vật Thần, Phật được vẽ to ở giữa,các nhân vật phụ nhỏ hơn và ở hai bên, các người thường dân và sinh vật lại nhỏ nữa và ở dưới. Tỷ lệ này phụ thuộc vào viễn cận xã hội, tuỳ theo địa vị của từng nhân vật để phóng to hay thu nhỏ. Trái lại ở những tờ tranh Tết thông thường,các nhân vật và cảnh vật dù thực tế hết sức chênh lệch nhau, nhưng với quan điểm bình đẳng tất cả được trình ra trên mặt tranh với một độ lớn tương đương nhau. Lỗi viễn cận phản ánh tư tưởng bình quân của nông dân, tất cả đều được tôn trọng.
 Về đường nét tranh dân gian dùng hình chủ yếu về đường nét được in, có những bức in nét xong là hoàn thành,nhiều tranh sau khi in nét đen mới dựa vào đó mà tô màu cho tươi và động. Cả những tranh được in màu kín thì nét đựơc in sau nên rất rõ. Nét bao lấy các mảng màu khiến mảng nào cũng được tách bạch rõ ràng, nét tuỳ từng dòng tranh mà có sự khác nhau. Nét ở tranh Đông Hồ đậm chắc, ít chi tiết vụn, nét ở tranh Hàng Trống mảnh mai, có phần “tham lam” nên hơi rối.
 Còn về bảng màu dù màu thuốc cái ở tranh điệp hay mùa hoá học chất ở nhiều dòng tranh khác nhau, thì cũng đều đằm thắm, chỉ rất ít màu, thiên về sáng, hầu như không cần đến màu ghi trung gian. Những màu ấy dù inhay vẽ cũng thật khiêm tốn, chỉ vài màu nhưng do cách chế biếnkỹ thuật in chồng, in lệch lại tạo thêm màu mới.
 Ngày nay tranh dân gian không chỉ có giá trị lịch sử, vẫn hàm chứa đầy đủ giá trị của một loại hình nghệ thuật đích thức... Các hoạ sỹ khai thác tranh dân gian ở các chất liệu và quan niệm thẩm mỹ, cho nó thăng hoa vào tác phẩm thì hồn dân tộc và chất thời đại sẽ là lẽ sống trương tồn cùng thời gian.
 1.3. Tính giáo dục của tranh Đông Hồ.
 Tranh vẽ của trẻ em rất gần gũi với tranh dân gian, nói cách khác tranh dân gian phù hợp với tâm hồn trẻ thơ bởi tính hồn nhiên, vui tươi, hóm hỉnh, mộc mạc, màu sắc tự nhiên, đưòng nét, hình khối, đơn giản, dễ hiểu làm cho trẻ yêu thích. Tranh dân gian phản ánh mọi mặt của đời sống với cái nhìn lạc quan, tươi sáng, từ xưa đến nay được mọi người ham chuộng. Với nội dung và hình thức độc đáo tranh dân gian là một loại hình nghệ thuật được phổ biến sâu rộng trong nhân dân. Tranh dân giản phản ánh đa dạng cuộc sống xã hội, song đối với đề tài trẻ emvà những con vật được trẻ em ưa thích đã được nghệ sỹ nhân gian gửi hồn mình trong bức vẽ đó là: em bé cưỡi trên mình nghé, đầu tre chiếc lọng lá sen, tay nâng ống sáo kề miệng thổi,... là một hình tượng nghệ thuật đẹp yêu đời, yêu cuộc sống, yêu lao động ngay từ tuổi thơ. Bức tranh bẩy em bé đu cành đào với những hoa và quaơr tranh thất đồng làm người xem nức lòng với thế giới trẻ con bụ bẫm vô cùng đáng yêu, hồ hởi với ước vọng con trẻ hạnh phúc, khoẻ mạnh. Những em bé ôm gà hay vịt ở các tranh Lễ Trí, Phú Quý, Vinh Hoa... đều là những đứa trẻ khôi ngô mà mọi người làm cha mẹ mong ước.
 Những tranh về các cuộc vui chơi trong ngày hội, ngày tết như múa rồng, múa lân, đánh vật,... càng thấy cuộc đời phơi phới đáng yêu cả đen những sinh vật như gà đàn lợn ổ,... khi đi vào tranh cũn mang niềm vui hồn hậu đậm đà. Ngưòi xem đã nhận ra ở con lơn nái có 5 con có cái mồn tủm tỉm như mới gặp được điều gì lý thú. Gà mái mỏ còn ngậm mồi đang “túc...túc...”gọi đàn con xúm xít chia mồi. Gà tróng dướn cao cổ đầy khí phách che chở cho gà mẹ gà con. Trong tranh dân gian con người dù trong lao động vui chơi đều rất thoải mái. Chẳng những vui khi múa rồng, múa lân ... mà vui ngay cả lúc đi cày, khi xông trận. Bà Trưng, Bà Triêu mỉm cười đánh giặc. Anh đô vật hứng khởi trong cuộc đáu không hề có ý được thua. Ngay cả những bức tranh thờ như Ngũ Hỏ Tứ Pháp... các nghệ nhân dân gian với cảm quan nghệ thuật và thẩm mỹ trong sáng bắt nguồn từ đời sống, những bức tranh như trình bày ở trên tưởng như các nghệ sỹ dân gianvẽ riêng cho trẻ em vậy.
Trong tranh dân gian, một bộ phận khá lớn đã đi vào đề tài lịch sử, phản ánh những anh hùng cứu nước và giữ nước của dân tộc, những chiến công lẫy lừng trong nhiều thời kỳ lịch sử được trẻ thơ ưa thích không chỉ về nội dung tích truyện mà cả về nghệ thuật thể hiên giản dị, tự nhiên mang đầy sức biểu cảm. bắt gặp ở đây những Phù Đổng Thiên Vương đại phá giặc ân, Trưng Vương trừ giặc Hán,Triệu ẩn đánh quân Ngô, Ngô quyền đánh giặc Hán, Trần Hưng Đạo đánh quân Nguyên, Lê Thái Tổ quét sạch quân Minh, Bắc Bình Vương đánh tan quân 
Thanh ... Đinh Tiên Hoàng tập trận với trẻ mục đồng, trong tranh Phù Đổng Thiên Vương đánh phá giặc Ân, cậu bé làng Gióng cưỡi trên con ngựa hồng đang băng băng phi nước đại hay tay quay tít những cây tre ngà, tung hoành giữa đám giặc Ân đang rối loạn vứt giáo mộc,đứa ngã lăn ra đất đứa co cẳng chạy thục mang...đằng sau Phù Đổng Thiên Vương biểu tượng Tổ quốc là núi non trung điệp, hùng vĩ, dưới ngọn cờ hồng,cả hang quân chỉnh tề vũ khí ra quân tiếp sức như kéo giài vô tận.tất cả những tranh anh hùng ấy với lòng yêu nước,yêu dân đã làm xúc động tâm hồn các nghệ sĩ dân gian,rồi qua bàn tay trân trọng của nghệ nhân,được hiên ra trên giấy dó,dẫn dắt tuổi thơ ngược dòng lịch sử về với cuội nguồn xa xưa đến tận nguồng của truyền thống dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc.
chương 2:
 Vận dụng nét đẹp tranh dân gian đông hồ 
 trong dạy học mỹ thuật cho học sinh phổ thông
 2.1. Nội dung đề tài tranh dân gian Đông Hồ ảnh hưởng tới tình cảm, nhân cách học sinh.
 Sức sống của tranh dân gian Đông Hồ tồn tại qua thời gian, giữ được vị trí trong cảm xúc thẩm mỹ của mọi người với giá trị tư tưởng, vẻ đẹp hài hoà của nó bắt nguồn từ cách nhìn, cách nghĩ của người nghệ sĩ, từ quan niệm thẩm mỹ của nhân dân lao động. Phần lớn nghệ nhân làm tranh dân gian Đông Hồ làd nhưng người nông dân thực thụ, họ am hiểu tình cảm và con người của xã hội nông nghiệp, họ sống cuộc sống của người lao động nên hiểu rõ cái mà họ vẽ ra, họ không chỉ nấm chắc ngoại hình mà còn tường tân cả nội tâm nữa. Các nghệ nhân nắm bắt được cuộc sống của nhân vật để rồi tái tao không phải sao chép lai thực tế, mà bằng lối tạo hình, gạn lọc, sắp xếp lại cho thuận mắt và nâng lên ở trạng thái nghệ thuật. 
 Với những đề tài phong phú muôn hình, muôn vẻ của cuộc sống mà tranh dân gian Đông Hồ phản ánh dã phần nào tái tạo lại cuộc sống sinh hoạt của ông cha ta. Để gợi lai những sự kiên lịch sử oai hùng của dân tộc, những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm, xây nền độc lập tự chủ của các anh hùng dân tộc thủa trước, các nghệ nhânđã khắc hoạ những hình ảnh như Đinh Tiên Hoàng cờ lau tập trận, Bà Trưng, Bà Triệu thúc quân diệt giặc, Trần Hưng Đạo chiến thắng quân Nguyên, Mông.
 Khi tiếp xúc vơi thể loại lịch sử đó các em như được ngược dong lich sử về với cội nguồn xa xưa đến tân nguồn của truyền thống dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc. Mặc dù các em đã từng được đọc, được học qua nhưng bài giảng, những trang sách nhưng khi nhìn thấy hình ảnh được phản ánh qua dân gian Đông Hồ miêu tả với khí phách hiên ngang dũng mãnh trước quân thù của cách vị anh hùng đã để lại trong các em những ấn tượng tốt đẹp, niềm tự hào dân tộc, từ đó hình thành ý thức trách nhiệm của bản thân mình với quê hương đất nước.
 Xem tranh”Gà đàn”, “Lợn đàn” của tranh dân gian Đồng Hồ chúng ta thấy đều nhằm nói lên ước mơ của người nông dân đồng thời cũng là để chúc tụng nhau khi chào đón một năm mới. Song trước khi chuyển sang chúc tụng thì nó đã là những phản ánh, mô tả sinh hoạt hàng ngày trong đời sống nông nghiệp của nhân dân. Quanh năm ngày tháng lao động để mưu sinh. Họ chỉ ước mong sao có “cơm ăn đủ no, áo đủ mặc, gà đầy sân, lợn đầy chuồng” đó là những ước mơ hoài bão chính đáng mà rất giản dị, mộc mạc.
 Hơn thế nữa cùng lúc với nhiệm vụ mô tả và phản ánh ước vọng cuộc sống, người nghệ sỹ dân gian Việt Nam còn chứa trang sức quyến rũ của tờ tranh những tư tưởng và tình cảm đã đựơc nâng lên. Đây là những lợn mẹ, lợn con mang đầy đủ tình cảm mẫu tử trong tư thế đùm bọc, quấn quýt với đôi mắt lim dim hiền từ. Đặc biệt các chi tiết gà mẹ ngậm con mồi rất nhẹ nhàng nhưng con mồi không thể thoát được và đòng thờ cũng không bị dập nát để các chú gà con được một miếng mồi ngon. Tình mẹ con ở đây phải chăng đã đựoc ngưòi nghệ sỹ dân gian nhân cách hoá và tấm lòng mẹ chắt chiu nuôi dương con cái, nhịn miếng ăn để dành, cho con những miếng mồi ngon lành nhất. Đó cũng là đạo lý thông thường trong tình cảm mẹ con đã ăn sâu vào tâm hồn chúng ta, đã đựơc coi là một hình ảnh đẹp, là một rung cảm nghệ thuật phong phú, một hình tượng vừa có chân, coa thiện, có mỹ.
 Tấm lòng bà mẹ Việt Nam đã ăn sâu vào tâm hồn người nghệ sỹ dân gian Việt Nam. Tấm lòng người mẹ đã chắt chiu, dành dụm tần tảo nuôi con, lấy hạnh phúc của con làm hạnh phúc của mình, con vui là mẹ vui, con no là mẹ no, con sung sướng là mẹ sung sướng, nó trở thành một tình cảm như vốn sẵn có. Một bản năng trong tư duy sáng tạo vốn tiềm tàng trong xương máu tâm hồn nghệ nhân, rồi từ đó tờ tranh quay trở lại có tác dụng xây dựng tâm hồn cho người xem qua nhiều thế hệ nối tiếp và đối với các em học sinh ở lứa tuổi thiếu niên nhi đồng, nó làm nảy sinh, nuôi dưỡng tinh thần, tình yêu thương kính trong cha mẹ, anh em, bạn bè và đồng loại, từ đó hình thành ý thức, nhân cách học sinh trong thời đại mới.
 Với nội dung phong phú của tranh dân gian Đông Hồ đã tác động tới cảm xúc thẩm mỹ trong các em. Các em biết trân trọng cái đẹp, yêu thiên nhiên cây cỏ hoa lá, những con vật bé nhỏ mà gần gũi với cuộc sống hàng ngày của các em, cũng từ đó biết giữ gìn và có ý thức làm cho môi trường xung quanh sạch và đẹp hơn.
 2.2.Nét tương đồng giữ đường nét trong tranh dân gian Đông Hồ với nét vẽ của học sinh lứa tuổi thiếu niên nhi đồng.
 Cách sử dụng đưòng nét, màu sắc là hai yếu tố quan trọng tạo nên vẻ đẹp của tranh, vì vậy hầu hết tranh dân gian Đông Hồ rất chú trọng tới đường nét và màu sắc. Dưới bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân, đường nét tạo nên sự nhất quán giữa hình và màu, diễn tả một tình cảm tính cách nhân vật bằng những nét đương to, nhỏ, đậm đà dứt khoát, khoẻ nhưng không khô cứng, chắc nhưng mềm mại uyển chuyển mà cũng rất thanh thoát tất cả đã tạo nên một vẻ đẹp riêng của tranh dân gian Đông Hồ. 
 Hầu hết tranh thiếu nhi không hẳn các em đều vẽ nét bo, lấy hình mảng mà nhiều khi chỉ là những mảng màu đặt cạnh nhau, tuy nhiên phần nhiều các em cũng thường sử dụng nét để viền lấy hình.
 Khi tiếp cận với đường nét trong tranh dân gian không phải các em bắt chước các nét vẽ đó mà qua đó các em như đựơc định hình một phong cách, không dò dẫm, không lệ thuộc. Qua tranh dân gian Đông

File đính kèm:

  • docsang kien kinh nghiem(4).doc