Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu kém môn Toán ở Lớp 3
Để đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay.
Trong việc dạy học toán, xuất phát từ một nhận định rằng mọi học sinh có sức khỏe bình thường đều có thể tiếp thu được kiến thức chương trình của lớp mình học. Nhưng bên cạnh đó hiện tượng có không ít học sinh kém toán do nhiều nguyên nhân như: các học sinh ấy chưa có điều kiện tốt để học tập, do sức khoẻ, do bệnh tật và cũng có thể do giáo viên chưa quan tâm Dạy học môn toán không chỉ dạy cho học sinh có trí thông minh, hay năng khiếu đặc biệt nào. Mà mỗi người giáo viên có trách nhiệm cần phải làm và làm thể nào cho mọi học sinh của lớp mình đều tiếp thu được những kiến thức và kỹ năng tối thiểu mà chương trình và sách giáo khoa quy định.
Từ đó không thể nói mọi học sinh đều tiếp thu kiến thức được như nhau. Trong điều kiện học tập như nhau, có học sinh có thể nắm kiến thức toán học rất nhanh chóng và sâu sắc mà không cần một sự cố gắng đặc biệt, trong khi các em khác lại không đạt được kết quả như vậy mặc dù cố gắng nhiều, đó chính là các em yếu, kém về môn toán.Vậy làm thế nào để giúp những học sinh yếu kém về môn toán có thể tiếp thu được những kiến thức và kỹ năng tối thiểu chương trình và sách giáo khoa quy định. Đó là điều không chỉ bản thân chúng tôi trăn trở suy nghĩ mà còn là nỗi lo chung của toàn bộ giáo viên khi trong lớp mình có những học sinh yếu kém môn toán. Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặt khác, nếu quan tâm đến việc phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “ MỘT SỐ BIỆN PHÁPGIÚP ĐỠ HỌC SINH YẾU KÉM MÔN TOÁN Ở LỚP 3 A: ĐẶT VẤN ĐỀ: Để đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Trong việc dạy học toán, xuất phát từ một nhận định rằng mọi học sinh có sức khỏe bình thường đều có thể tiếp thu được kiến thức chương trình của lớp mình học. Nhưng bên cạnh đó hiện tượng có không ít học sinh kém toán do nhiều nguyên nhân như: các học sinh ấy chưa có điều kiện tốt để học tập, do sức khoẻ, do bệnh tật và cũng có thể do giáo viên chưa quan tâm Dạy học môn toán không chỉ dạy cho học sinh có trí thông minh, hay năng khiếu đặc biệt nào. Mà mỗi người giáo viên có trách nhiệm cần phải làm và làm thể nào cho mọi học sinh của lớp mình đều tiếp thu được những kiến thức và kỹ năng tối thiểu mà chương trình và sách giáo khoa quy định. Từ đó không thể nói mọi học sinh đều tiếp thu kiến thức được như nhau. Trong điều kiện học tập như nhau, có học sinh có thể nắm kiến thức toán học rất nhanh chóng và sâu sắc mà không cần một sự cố gắng đặc biệt, trong khi các em khác lại không đạt được kết quả như vậy mặc dù cố gắng nhiều, đó chính là các em yếu, kém về môn toán.Vậy làm thế nào để giúp những học sinh yếu kém về môn toán có thể tiếp thu được những kiến thức và kỹ năng tối thiểu chương trình và sách giáo khoa quy định. Đó là điều không chỉ bản thân chúng tôi trăn trở suy nghĩ mà còn là nỗi lo chung của toàn bộ giáo viên khi trong lớp mình có những học sinh yếu kém môn toán. Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặt khác, nếu quan tâm đến việc phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương. Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ học sinh yếu. Đây sẽ là nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi tri thức và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình. Từ những suy nghĩ trên, bản thân đã mạnh dạn chọn đề tài: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP ĐỠ HỌC SINH YẾU KÉM MÔN TOÁN Ở LỚP 3 ” áp dụng vào thực tế lớp 3B - 3D. B: NỘI DUNG Qua những năm trực tiếp giảng dạy, bản thân cũng nắm bắt và thấu hiểu được tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học. Nếu các em được sống trong sự yêu thương, chăm sóc, quan tâm của gia đình, thầy cô và có một môi trường học tập tốt thì các em sẽ ham thích, say mê và nỗ lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em là học sinh yếu, giúp các em tự tin hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh yếu hay nói khác hơn, để nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình mà là của toàn xã hội. Vì vậy, đây là động lực để những ai đang làm công việc “trồng người” luôn cố gắng tìm ra được những tồn tại và nguyên nhân làm cho chất lượng phụ đạo học sinh yếu chưa đạt hiệu quả cao. Và từ đó sẽ có những biện pháp khắc phục phù hợp. Đây cũng chính là mục đích của đề tài này. *. Nhiệm vụ Khảo sát tình hình học yếu của học sinh lớp 3B- 3D hiện nay. Tiếp cận với học sinh, các bậc phụ huynh học sinh để tìm ra những biện pháp có hiệu quả nhất trong việc phụ đạo học sinh yếu. Rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết một số khó khăn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. I. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 1/Thực trạng: Thuận lợi Đối với học sinh lớp 3 là lớp giữa cấp của bậc tiểu học nên ý thức, động cơ học tập của các em chưa cao. Học sinh lớp 3 có thể tiếp nhận sự giúp đỡ trong học tập từ nhiều phía. Trong đó, bạn học với vai trò “ Đôi bạn cùng tiến” đã giúp các em học sinh yếu giảm bớt phần nào khó khăn trong học tập. Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, thân thiện luôn quan tâm đến từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh yếu. Sự quan tâm, phối hợp của Ban Giám Hiệu và Đoàn thể nhà trường. Hiện nay, việc thực hiện đổi mới công tác dạy và học theo hướng khoán nội dung chương trình cho phép giáo viên chủ động thời lượng trong từng phân môn, từng bài học. Vì vậy, việc giúp đỡ các em trên lớp dễ dàng hơn, chủ động hơn. 1.2 Khó khăn Như đã nêu, đối tượng học sinh yếu có những khác biệt. Và hơn thế nữa, trong từng cá nhân của đối tượng này cũng là sự khác biệt về phong cách nhận thức.Vì vậy, mỗi dạng đối tượng cần có sự tác động khác nhau. Theo qui định về đánh giá xếp loại học sinh hiện nay, môn học xếp loại yếu khi điểm học lực môn dưới 5. Nhưng trong thực tế, những học sinh yếu môn Toán, thì những môn học khác cũng bị ảnh hưởng. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực kiên trì của thầy và trò rất cao. Đối tượng học sinh yếu thường là những em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cha mẹ ly hôn, cuộc sống không ổn định hoặc là gia đình người đồng bào dân tộc thiểu số, ít quan tâm đến việc học. Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục: Đội ngũ giáo viên Cơ sở vật chất Chất lượng đầu vào. Trước những thách thức đó đòi hỏi người thầy phải nỗ lực bản thân, kiên trì, bền bỉ cùng nhà trường khắc phục khó khăn và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục. Thực tế, trong lớp 3B-3D mà bản thân chúng tôi chủ nhiệm, có một số học sinh thuộc con em gia đình đồng bào dân tộc, một số học sinh thuộc con em gia đình lao động nghèo, vì cuộc sống mưu sinh, vì mãi lo cho kinh tế gia đình, một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của con em mình. Điều này phần nào đã ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em. 2.Nguyên nhân: 2.1 Về phía học sinh: Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì nguyên nhân học sinh yếu có thể là do: Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em học sinh yếu là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà “ học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì. Học sinh không có thời gian cho việc tự học, ngoài thời gian học trên lớp, khi ở nhà các em phải phụ giúp gia đình việc đồng áng, chăn trâu, chăn bò,. Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ. Đây là một điều không thể phủ nhận với chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi của giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh. 2.2 Về phía giáo viên: Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò giỏi. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà ở đây giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với từng nội dung kiến thức. Qua quá trình công tác bản thân nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu mà chúng tôi nhận thấy trong quá trình công tác. Qua việc phân tích những nguyên nhân đó, chúng tôi đưa ra một số biện pháp để giáo dục, phụ đạo học sinh yếu. Trong phạm vi của bài viết, chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh yếu ở môn Toán II. GIẢI PHÁP 1.1) Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện: Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình. Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng cách ghi hoa điểm mười để thưởng. 2)Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh. Giáo viên thực hiện đúng theo công văn chỉ thị 896/BGD&ĐT quyền tự chủ, vì vậy, giáo viên tự lên kế hoạch dạy học cho lớp mình trên cơ sở phù hợp với đặc điểm tình hình ở địa phương, của học sinh, nhưng phải đảm bảo yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học theo quyết định 16 Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài chậm, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này. Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em. Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề. 1.3) Giáo dục ý thức học tập cho học sinh: Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập, không để tình trạng học sinh đứng bên lề tiết dạy. Từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức. Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, có một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên. 1.4)Kèm cặp học sinh yếu: Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. TỔNG HỢP KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG MÔN TOÁN ĐẦU NĂM Lớp Tổng số học sinh Học sinh yếu kém toán Đầu năm 3B 16 Số lượng T.L% 4 25 % 3D 7 Số lượng % 2 28,57 % Như lớp 3B-3D mà bản thân chúng tôi chủ nhiệm, sau khi thi khảo sát chất lượng đầu năm thì có 6 học sinh yếu trong đó có 2 học sinh lớp 3D thuộc dân tộc thiểu số và tất cả 6 em này đều thuộc hộ nghèo trong xã, bản thân đã lên kế hoạch phụ đạo cho các em. Lập danh sách học sinh yếu và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng, DANH SÁCH HỌC SINH YẾU MÔN TOÁN LỚP 3B TT Họ và tên Con ông (bà) Chỗ ở Ghi chú 1 Nguyễn Thị Huyền Trang Nguyễn Văn Nhạ Xóm Hùng Sơn 2 Lê Văn Quý Lê Văn Huy Xóm Hùng Thịnh Khuyết tật 3 Lê văn Hiếu Lê Văn Bình Xóm Hoà Sơn Hộ nghèo 4 Trần Đăng Duy Trần Đăng Khoa Xóm Hùng Sơn Hộ nghèo DANH SÁCH HỌC SINH YẾU MÔN TOÁN LỚP 3D TT Họ và tên Con ông (bà) Chỗ ở Ghi chú 1 Lương Thanh Trúc Lương Văn Thắng Thái Sơn Dân tộc 2 Lang Văn Trường Lang Văn Đức Thái Sơn Dân tộc Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học của học sinh, cùng với phụ huynh tìm biện pháp khắc phục. 2) Những biện pháp cụ thể: */Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Toán và biện pháp khắc phục Trong lớp chủ nhiệm có em Nguyễn Thị Huyền Trang thì hầu như là không biết tính khi học toán. Nguyên nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu một số nguyên nhân tiêu biểu: Không nắm được các phép tính cộng, trừ có nhớ, không thuộc bảng nhân, bảng chia. Vì vậy, các em cũng không nắm được các phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Không nắm được lí thuyết bài (công thức, quy tắt). Không nắm được cấu tạo số tự nhiên ( cách đặt tính) Vậy, đối với những học sinh không biết tính thì giáo viên cần: Hướng dẫn để các em hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực hiện các phép tính cộng, trừ, giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với những em không thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên kiểm tra thường xuyên vào sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo thành các tình huống liên quan đến các phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện. Ôn lại các cách đặt tính. Giáo viên cho học sinh làm các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số thuộc cùng một hàng. Ví dụ: 235 + 345 Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có 2 chữ số với số có 3 chữ số. Ví dụ: 46 +123 Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến lớn hoặc từ lớn đến nhỏ, thì mới tính toán chính xác được. Bên cạnh những học sinh không biết tính thì có những em tính còn yếu. Nguyên nhân các em tính yếu có thể là do: Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân, chia trong bảng chưa thành thạo dẫn đến tính toán chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngoài bảng. Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải toán vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và không biết tính hoặc tính thiếu chính xác. Vậy đối với những học sinh tính yếu thì giáo viên cần: Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia mức độ đơn giản. Khi giải toán, giáo viên có thể yêu cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài, tóm tắt và trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi một vài con số và yêu cầu các em học yếu làm lại. Các em có thể làm vào giờ ra chơi hoặc giờ luyện vào buổi chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai (nếu có) kịp thời. Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ bản. Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp. Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em. Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn thường trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, nhờ giáo viên giúp đỡ khi cần. Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai, xem trước bài mới. Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục và động viên kịp thời. *) Tóm lại: Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh yếu, biện pháp lâu dài là tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập. Thông qua những phương pháp dạy học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập thành nhu cầu vì nguồn gốc của tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học sinh có nhu cầu thì tự các em sẽ tìm kiếm tri thức. Đó chính là khả năng tự học. Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên bản thân luôn luôn hướng các em theo khẩu hiệu “Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Bản thân cũng tin tưởng rằng, mình đã đưa ra những biện pháp thích hợp trong công tác phụ đạo học sinh yếu. Đây là yếu tố cần thiết, giúp cho chất lượng học tập của các em ngày một được nâng cao. III. KẾT QUẢ Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc tiểu học đã tạo điều kiện cho chúng tôi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề ra những giải pháp trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng. Từ đó giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa chữa những hạn chế của bản thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quan điểm đổi mới để vận dụng vào thực tiễn. Những biện pháp trên có thể áp dụng cho vào việc đổi mới dạy và phụ đạo học sinh yếu các lớp 3 đạt hiệu quả. Đặc biệt trong năm học này, Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm thì việc phụ đạo học sinh yếu trong lớp 3 bản thân chúng tôi chủ nhiệm đến thời điểm này đạt kết quả rất cao.( Chỉ còn lại một học sinh yếu vì khuyềt tật đã được cơ quan y tế chứng nhận). TỔNG HỢP ĐIỂM THI MÔN TOÁN ĐỊNH KÌ LẦN III Lớp Tổng số học sinh Học sinh yếu kém toán Định kì lần III 3B 16 Số lượng T.L% 1 6,25 % 3D 7 Số lượng % 0 0 % DANH SÁCH HỌC SINH YẾU MÔN TOÁN LỚP 3B SAU KIỂM TRA ĐỊNH KÌ LẦN III TT Họ và tên Con ông (bà) Chỗ ở Ghi chú 1 Nguyễn Thị Huyền Trang Nguyễn Văn Nhạ Xóm Hùng Sơn Xoá yếu 2 Lê Văn Quý Lê Văn Huy Xóm Hùng Thịnh Khuyết tật 3 Lê văn Hiếu Lê Văn Bình Xóm Hoà Sơn Xoá yếu 4 Trần Đăng Duy Trần Đăng Khoa Xóm Hùng Sơn Xoá yếu DANH SÁCH HỌC SINH YẾU MÔN TOÁN LỚP 3D SAU KIỂM TRA ĐỊNH KÌ LẦN III TT Họ và tên Con ông (bà) Chỗ ở Ghi chú 1 Lương Thanh Trúc Lương Văn Thắng Thái Sơn Xoá yếu 2 Lang Văn Trường Lang Văn Đức Thái Sơn Xoá yếu IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối tượng học sinh yếu, giáo viên chủ nhiệm cần: Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực. Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em. Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hòa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. Học sinh lớp 3 cũng thích được động viên khen thưởng, giáo viên không nên dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin để các em an tâm học tập. Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt tình của người thầy
File đính kèm:
- Sang kien 3B Thuan.doc