Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ 3 - 4 tuổi tại trường mầm non

Như chúng ta đã biết trẻ em là niềm tự hào lớn của mỗi gia đình, là chủ nhân tương lai của đất nước, là nền tảng vững chắc cho xã hội Việt Nam. “ Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Để đạt được điều đó thì việc chăm sóc giáo dục trẻ phải có sự chung tay góp sức của cả gia đình, nhà trường và xã hội. Tuy nhiên trước sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền kinh tế hiện nay thì rất nhiều các bậc phụ huynh có rất ít thời gian để quan tâm đến con mình bên cạnh đó cũng không ít trẻ vì quá được cưng chiều, cha mẹ làm thay hết mọi việc nên trẻ có thói quen ỷ lại chỉ biết trông chờ người khác phục vụ.

Trẻ em ở phương Tây có tính tự lập, sáng tạo rất cao, ở đó trẻ còn có tính kỉ luật mà không nhút nhát. Không phải tự nhiên mà trẻ em ở phương Tây lại có tính tự lập cao như vậy mà điều đó có được là do họ đã rèn kĩ năng sống cho trẻ ngay từ lúc còn nhỏ trong gia đình và trong trường học. Với những người làm công tác giáo dục trẻ mầm non ở Mỹ họ đều được nhấn mạnh về việc giáo dục cho trẻ các kĩ năng tự phục vụ bản thân. Họ cho rằng nắm bắt các kĩ năng tự phục vụ có thể giúp trẻ tăng cường tính độc lập và cảm giác về sự thành công, nó không chỉ có lợi cho sự phát triển của trẻ mà còn giúp ích rất nhiều cho chính những người lớn chúng ta.

Kĩ năng sống là rất cần thiết đối với trẻ nhưng liệu tất cả trẻ em Việt Nam hiện nay đã có được sự tự lập đồng đều theo mong muốn chưa? Hay người lớn chúng ta vẫn luôn có phép so sánh sự tự lập của trẻ em Việt nam với trẻ em phương Tây. Phải chăng do cách giáo dục, cách che chở của người lớn, của các bậc cha mẹ hiện đại là làm mọi việc để đáp ứng yêu cầu của trẻ? Trong thực tế hiện nay, hầu hết các bậc phụ huynh đều rất chiều con và làm giúp con hầu hết tất cả các công việc và phục vụ trẻ từ những việc vệ sinh cá nhân đến những việc nhỏ mà trẻ phải làm. Vì sợ con vất vả hoặc không làm được nên bố mẹ thường làm hộ, làm giúp con dẫn đến việc những đứa trẻ thường ỷ lại vào bố mẹ.

Việc rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ mầm non là một trong năm nội dung quan trọng của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện – học sinh tích cực” do Bộ giáo dục và đào tạo phát động. Rèn kĩ năng sống cho trẻ là một trong những kĩ năng hết sức quan trọng để hình thành nhân cách cho trẻ.

Bản thân tôi là giáo viên mầm non lại trực tiếp dạy lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi. Trong thời gian đầu qua quá trình làm quen, trò chuyện, hoạt động và gần gũi trẻ tôi thấy nhiều trẻ lớp tôi còn nhút nhát, ỷ lại, lười vận động, chưa có kĩ năng tự phục vụ. Mọi hoạt động của trẻ đều do cô giáo phục vụ hay nhắc trẻ làm thì bạ đâu trẻ cũng để, cũng vứt. Trẻ chưa có tính tự giác, chưa chủ động trong mọi hoạt động, chưa phát huy được tính sáng tạo của mình. Xuất phát từ những lý do trên tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ 3-4 tuổi tại trường mầm non” làm đề tài nghiên cứu cho bản sáng kiến kinh nghiệm của mình.

 

doc20 trang | Chia sẻ: thienanh95 | Lượt xem: 1864 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ 3 - 4 tuổi tại trường mầm non, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM
TRƯỜNG MẦM NON DƯƠNG HÀ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM, GIẢI PHÁP
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG TỰ PHỤC VỤ
 CHO TRẺ 3-4 TUỔI TẠI TRƯỜNG MẦM NON
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hiền 
Lĩnh vực: Giáo dục mẫu giáo 
Cấp học: Mầm non
Tài liệu kèm theo: Không
NĂM HỌC 2018 – 2019
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
2 - 3
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
4 - 17
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN.
4 - 5
II/ THỰC TRẠNG
5 - 6
1/ Những thuận lợi và khó khăn
5
2/ Điều tra thực trạng
6
III/ CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH
6 - 16
1/ BP1: Xây dựng kế hoạch rèn kĩ năng tự phục vụ
6 - 8
 2/ BP2: Lồng ghép giáo dục kĩ năng tự phục vụ vào các hoạt động
8 - 13
3/ BP 3: Thường xuyên động viên khen ngợi trẻ trong các hoạt động
13 - 14
4/ BP 4: Luyện tập cho trẻ các công việc tự phục vụ vừa sức
14 - 15
5/ BP 5: Rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ thông qua các bài thơ, bài vè
15
6/ BP 6: Tuyên truyền phối kết hợp với phụ nhuynh
15 - 16
IV/ HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
16 - 17
C/ KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
18
I. KẾT LUẬN
18
II. KIẾN NGHỊ
18
D/ TÀI LIỆU THAM KHẢO
19
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ.
Như chúng ta đã biết trẻ em là niềm tự hào lớn của mỗi gia đình, là chủ nhân tương lai của đất nước, là nền tảng vững chắc cho xã hội Việt Nam. “ Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Để đạt được điều đó thì việc chăm sóc giáo dục trẻ phải có sự chung tay góp sức của cả gia đình, nhà trường và xã hội. Tuy nhiên trước sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền kinh tế hiện nay thì rất nhiều các bậc phụ huynh có rất ít thời gian để quan tâm đến con mình bên cạnh đó cũng không ít trẻ vì quá được cưng chiều, cha mẹ làm thay hết mọi việc nên trẻ có thói quen ỷ lại chỉ biết trông chờ người khác phục vụ.
Trẻ em ở phương Tây có tính tự lập, sáng tạo rất cao, ở đó trẻ còn có tính kỉ luật mà không nhút nhát. Không phải tự nhiên mà trẻ em ở phương Tây lại có tính tự lập cao như vậy mà điều đó có được là do họ đã rèn kĩ năng sống cho trẻ ngay từ lúc còn nhỏ trong gia đình và trong trường học. Với những người làm công tác giáo dục trẻ mầm non ở Mỹ họ đều được nhấn mạnh về việc giáo dục cho trẻ các kĩ năng tự phục vụ bản thân. Họ cho rằng nắm bắt các kĩ năng tự phục vụ có thể giúp trẻ tăng cường tính độc lập và cảm giác về sự thành công, nó không chỉ có lợi cho sự phát triển của trẻ mà còn giúp ích rất nhiều cho chính những người lớn chúng ta. 
Kĩ năng sống là rất cần thiết đối với trẻ nhưng liệu tất cả trẻ em Việt Nam hiện nay đã có được sự tự lập đồng đều theo mong muốn chưa? Hay người lớn chúng ta vẫn luôn có phép so sánh sự tự lập của trẻ em Việt nam với trẻ em phương Tây. Phải chăng do cách giáo dục, cách che chở của người lớn, của các bậc cha mẹ hiện đại là làm mọi việc để đáp ứng yêu cầu của trẻ? Trong thực tế hiện nay, hầu hết các bậc phụ huynh đều rất chiều con và làm giúp con hầu hết tất cả các công việc và phục vụ trẻ từ những việc vệ sinh cá nhân đến những việc nhỏ mà trẻ phải làm. Vì sợ con vất vả hoặc không làm được nên bố mẹ thường làm hộ, làm giúp con dẫn đến việc những đứa trẻ thường ỷ lại vào bố mẹ.
Việc rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ mầm non là một trong năm nội dung quan trọng của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện – học sinh tích cực” do Bộ giáo dục và đào tạo phát động. Rèn kĩ năng sống cho trẻ là một trong những kĩ năng hết sức quan trọng để hình thành nhân cách cho trẻ. 
Bản thân tôi là giáo viên mầm non lại trực tiếp dạy lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi. Trong thời gian đầu qua quá trình làm quen, trò chuyện, hoạt động và gần gũi trẻ tôi thấy nhiều trẻ lớp tôi còn nhút nhát, ỷ lại, lười vận động, chưa có kĩ năng tự phục vụ. Mọi hoạt động của trẻ đều do cô giáo phục vụ hay nhắc trẻ làm thì bạ đâu trẻ cũng để, cũng vứt. Trẻ chưa có tính tự giác, chưa chủ động trong mọi hoạt động, chưa phát huy được tính sáng tạo của mình. Xuất phát từ những lý do trên tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ 3-4 tuổi tại trường mầm non” làm đề tài nghiên cứu cho bản sáng kiến kinh nghiệm của mình.
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN 
Như Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã dạy: “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuỳ theo sức của mình” Đúng vậy, chúng ta cần phải rèn kĩ năng sống đặc biệt là kĩ năng tự phục vụ cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ và bắt đầu từ việc nhỏ nhất như: tự xúc cơm, tự vệ sinh cá nhân, tự đi giầy, dép... Kĩ năng tự phục vụ là những thói quen sinh hoạt thường ngày trong giao tiếp và ứng xử của trẻ đối với bản thân và những người xung quanh. Dạy cho trẻ biết những kĩ năng tự phục vụ giúp trẻ ý thức được bản thân, đây là cơ hội tốt nhất giúp trẻ nhanh chóng khôn lớn và trưởng thành trong cuộc sống, trẻ sống có trách nhiệm hơn với chính mình, dạy trẻ biết quan sát và làm theo hướng dẫn của người lớn trong các công việc nhỏ hàng ngày. Chính những việc làm của người lớn thường ngày sẽ được trẻ chú ý quan sát và ghi nhớ để thực hiện lại. Nhưng trong thực tế hiện nay, trong nhiều gia đình, các bậc cha mẹ thường không để cho các cháu nhỏ phải làm gì cả, ngoài việc học tập và vui chơi. Do đó, việc rèn kĩ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ trong trường mầm non là việc làm vô cùng cần thiết. Sự tự tin, cách ứng xử của trẻ và hiểu biết của chúng về thế giới xung quanh phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng môi trường giáo dục mầm non và mối quan hệ tương hỗ giữa giáo viên và trẻ.
 Theo WHO (1993) “ Năng lực tâm lý xã hội là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh. Năng lực tâm lý xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức khỏe theo hướng rộng nhất về thể chất, tinh thần và xã hội.
Kĩ năng sống chính là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối phó những nhu cầu và thách thức trong cuộc sống hàng ngày. Dạy kỹ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống của người lớn. Nhằm giúp trẻ có những kỹ năng đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Trẻ biết vận dụng những kiến thức của mình để giải quyết những khó khăn trong cuộc sống cho phù hợp. Có ai đó đã nói “ Gieo hành vi, gặt thói quen”, ở lứa tuổi mầm non hành vi và nhận thức của trẻ giống như tờ giấy trắng. Khi gieo lên đó những mầm nhân cách nào thì nó sẽ hình thành thói quen đó cho trẻ sau này. Muốn trẻ hình thành được thói quen tích cực cần phải thông qua trải nghiệm và thích nghi và cần nhất là giáo dục cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản.
II/ THỰC TRẠNG.
1/ Những thuận lợi và khó khăn
1.1/ Thuận lợi 
 - Được sự chỉ đạo sát sao về chuyên môn của Phòng giáo dục và sự quan tâm tạo điều kiện về cơ sở vật chất của Ban giám hiệu nhà trường như bổ xung đầy đủ dùng, đồ chơi giáo cụ, trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy.
 - Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện thuận lợi giáo viên được tham gia các lớp bồi dưỡng về kĩ năng tự phục vụ.
 - Bản thân là một giáo viên có tinh thần trách nhiệm cao trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ, hiểu tâm sinh lí của trẻ lứa tuổi mầm non, đặc biệt là trẻ 3 - 4 tuổi . Có trình độ chuyên môn, nắm chắc phương pháp, ham học hỏi, yêu nghề, mến trẻ.
- Trên 50% học sinh đã qua lớp nhà trẻ nên có nề nếp tốt.
- Trẻ trong lớp cùng độ tuổi nên mức độ nhận thức tương đối đồng đều. 
- Đa số trẻ năng động, khoẻ mạnh và tích cực tham gia vào hoạt động.
- Đa số phụ huynh luôn quan tâm đến trẻ, thường xuyên trao đổi với giáo viên về các nội dung chăm sóc giáo dục trẻ, nhiệt tình ủng hộ các đợt phát động của trường, lớp ...
1.2/ Khó khăn: 
 	- Một số trẻ quá hiếu động, nghịch ngợm cho nên cũng gây ảnh hưởng tới các bạn khác trong lớp khi tham giá các hoạt động.
- Một số trẻ trong lớp còn nhút nhát chưa tự tin giao tiếp với cô và các bạn.
- Nhiều gia đình quá chiều chuộng con nên dẫn đến trẻ ngại hoạt động mà luôn có tính ỷ lại vào người khác.
2/ Điều tra thực trạng 
Từ những thuận lợi và khó khăn trên, sau khi nhận lớp một thời gian, tôi đã bắt tay ngay vào khảo sát chất lượng trẻ đầu năm học. Kết quả khảo sát đầu năm của lớp như sau:
Tổng số trẻ trong lớp: 29 cháu 
STT
Tiêu chí khảo sát
Đạt
CĐ
1
Tự xúc cơm ăn
9
20
 Tỷ lệ %
31
69
2
Tự cất bát sau khi ăn
8
21
 Tỷ lệ %
26
74
3
Tự rửa tay, lau mặt trước khi ăn
7
22
 Tỷ lệ %
24
76
4
Tự cởi, mặc, xếp quần áo gọn gàng
7
22
 Tỷ lệ %
24
76
5
Tự mang giày, dép
6
23
  Tỷ lệ %
21
79
6
Tự lấy, cất gối
6
23
 Tỷ lệ %
21
79
7
Chủ động làm các công việc tự phục vụ
5
24
 Tỷ lệ %
17
83
Qua việc khảo sát đầu năm, tôi nhận thấy trẻ lớp tôi đa số còn chưa biết cách tự phục vụ bản thân, chưa có ý thức giữ gìn vệ sinh thân thể, đặc biệt khả năng tự giác còn rất ít trẻ đạt yêu cầu. Trẻ lớp tôi còn luôn ỷ lại, dựa dẫm vào cô giáo ở lớp, nếu không có cô giúp hoặc nhắc nhở thì trẻ không biết phải làm gì. Từ thực trạng nêu trên tôi đã nghiên cứu, tìm tòi và đã các biện pháp thực hiện để rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ lớp tôi cụ thể như sau:
III/CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH
1/ Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ 	Để rèn tính tự phục vụ cho trẻ được hiệu quả, tôi đã chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể cho từng tháng trong năm học như sau: 
THÁNG
NỘI DUNG
MỤC ĐÍCH
9
- Xếp hàng, lấy dụng cụ thể dục.
- Nhận biết và thực hiện nội quy lớp học.
- Trẻ biết xếp hàng đúng vị trí, lấy dụng cụ tập lần lượt không xô đẩy nhau.
- Trẻ nhận biết kí hiệu của mình. - - Biết lấy cất đồ dùng học tập đúng nơi quy định.
10
- Trẻ đi học đúng giờ, tự cất đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định.
- Chơi gọn gàng, ngăn nắp.
- Giúp trẻ hình thành thói quen đi học đúng giờ. Biết tự cất dép, ba lô đúng nơi quy định và gọn gàng.
- Nhận biết các góc chơi, biết lấy và cất đồ chơi đúng nơi quy định.
11
- Trẻ có thói quen vệ sinh cá nhân, thực hiện một số việc đơn giản: rửa tay, lau mặt, xúc miệng, tháo tất, cởi quần áo với sự giúp đỡ.
- Sử dụng bát thìa đúng cách.
- Trẻ biết tự rửa tay bằng xà phòng và lau mặt. Khi ăn biết mời cô, mời bạn. Tự giác ăn hết xuất, không nói chuyện, không làm rơi vãi khi ăn. Biết tự lấy, cất gối. 
12
- Trẻ có thói quen giữ gìn vệ sinh chung trong lớp học.
- Thực hiện 1 số quy định: cất xếp đồ chơi, đồ dùng, không tranh giành đồ chơi,..
- Bỏ rác đúng nơi quy định.
- Trẻ biết tham gia các hoạt động tập thể như: tưới cây, nhặt rác, nhặt lá vàng cho cây,...
1
- Tham gia các hoạt động tập thể để phát huy tính tự phục vụ, sáng tạo của trẻ
- Biết nói với người lớn khi bị đau, chảy máu,
- Trẻ biết hoàn thành nhiệm vụ cô giao: Sưu tầm các nguyên liệu mang đến lớp như: lịch cũ, hộp bánh, chai nước ngọtTham gia tốt các hoạt động đi dạo đi thăm, các hoạt động theo nhóm.
2
- Đưa ra ý kiến của bản thân.
- Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi, chào hỏi lễ phép.
- Trẻ biết đặt câu hỏi, đưa ra câu trả lời của bản thân trong các hoạt động.
3
- Biết giúp đỡ mọi người xung quanh.
- Cùng chơi với các bạn.
- Biết giúp đỡ bạn khi bạn gặp khó khăn như: Cho bạn mượn đồ dùng, biết giữ gìn không làm hỏng đồ dùng đồ chơi,... 
4
- Tự thực hiện nội quy của lớp và nhu cầu của bản thân.
- Thực hiện trực nhật; tự xếp ghế, đồ chơi gọn gàng; tự thay quần áo khi cần 
5
- Có hành vi văn minh nơi công cộng.
- Thực hiện một số quy định: bỏ rác đúng nơi quy định.
- Không vứt rác bừa bãi. Biết nhắc nhở mọi người thực hiện hành vi văn minh	
Việc lập kế hoạch sắp xếp các kĩ năng cần rèn cụ thể trong từng tháng đã giúp tôi cùng với đồng chí giáo viên trong lớp dễ dàng thuận tiện trong việc chuẩn bị nội dung và đồ dùng để rèn trẻ một cách khoa học chính vì vậy mà hiệu quả của việc rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ cũng tốt hơn so với trước đây. 
2/ Biện pháp 2: Lồng ghép rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ vào các hoạt động
 Tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm thể hiện được mối quan hệ hợp tác giữa cô với trẻ, giữa trẻ với nhau, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí, đặc biệt là nhu cầu và hứng thú của trẻ trong hoạt động. Trong suốt thời gian trẻ tham gia hoạt động cần duy trì tính hấp dẫn của nhiệm vụ, tạo cho trẻ có hứng thú và niềm say mê khám phá thế giới thông qua các trò chơi và các hoạt động tìm tòi khám phá. Trẻ chủ động tích cực tham gia các hoạt động trải nghiệm, các tình huống khác nhau của cuộc sống. Dần dần trẻ trở nên tích cực chủ động, linh hoạt và tự tin trong mọi hoàn cảnh. Đối với trẻ lên ba đã bắt đầu có khả năng làm một số việc đơn giản, trẻ đã có ý thức về điều đó và luôn chứng tỏ khả năng của mình trong sinh hoạt hàng ngày ở lớp. 
2.1/ Thông qua hoạt động đón, trả trẻ
Đối với trẻ mẫu giáo nói chung đặc biệt là trẻ lứa tuổi 3- 4 tuổi nói riêng, việc rèn tính tự phục vụ cho trẻ là rất cần thiết. Hoạt động đón trả trẻ là khoảng thời gian tôi tận dụng để trò chuyện và cung cấp kiến thức, rèn cho trẻ một số kĩ năng tự phục vụ như : tự đi vào lớp, tự cởi giày dép và để lên giá, tự tháo và cất ba lô vào tủ đồ dùng cá nhân. 
Ví dụ: Khi trẻ đến lớp, tôi nhắc trẻ chào cô, chào mẹ rồi tự cất dép lên giá, cất balo vào đúng ngăn tủ có ký hiệu của mình. Ngoài ra, tôi còn quan sát thái độ, phong cách của trẻ xem trẻ đã chú ý và chủ động chưa, nếu thấy trẻ chưa biết tự giác làm việc thì nhắc nhở khéo léo và động viên tự làm.
Ví dụ: Nếu trẻ chưa tự giác cất dép, cất balo của mình, vẫn muốn bố mẹ cất giúp thì tôi sẽ nhẹ nhàng nói “ Con lớn rồi đấy mẹ ạ nên con có thể tự cất dép và balo của con vào tủ đấy! Mẹ nhìn con làm nhé”. 
Ảnh 1 : Trẻ cất dép lên giá
Thực hiện nghiêm túc giờ đón trả trẻ, quan tâm rèn cho trẻ các kĩ năng đã trò chuyện và cung cấp ở mọi lúc, mọi nơi nên trẻ lớp tôi luôn có thói quen chào hỏi lễ phép, không còn tình trạng bố mẹ bế con vào tận lớp học hay giúp con cất dép, cất ba lô như hồi đầu năm học .
2.2/ Thông qua hoạt động có chủ đích
Hoạt động chủ đích là hoạt động mà giáo viên có thể lồng ghép nội dung rèn tính tự phục vụ cho trẻ dễ dàng và đạt được hiệu quả cao. Trong hoạt động chủ đích, việc rèn tính tự phục vụ của trẻ được thông qua nội dung bài học và cả các hình thức tổ chức dạy học. Chính vì vậy, tôi thường cho trẻ làm quen với hình thức làm việc theo nhóm để phát huy tính đoàn kết, biết thảo luận, trao đổi ý kiến và đưa ra kết quả chung cho nhóm của mình. Bên cạnh đó nếu làm việc theo nhóm mà trẻ không tích cực, không chủ động thì dẫn đến việc trẻ dựa dẫm vào bạn khác, không chịu tự làm việc và thảo luận cùng các bạn. Vì vậy, khi cho trẻ làm việc theo nhóm thì cô cần quan sát kĩ để phát hiện những trẻ nào tích cực, những trẻ nào còn chưa tích cực để động viên, khuyến khích giúp trẻ cố gắng và tích cực hơn trong các hoạt động sau. Ngoài việc cho trẻ làm việc theo nhóm, tôi còn cho trẻ làm việc cá nhân nhằm rèn tính tự phục vụ cho từng cá nhân trẻ. Trong giờ học đối với các hoạt động cần đến đồ dùng của trẻ, tôi chỉ chuẩn bị đồ dùng đặt sẵn trên bàn sau đó cho trẻ tự lên lấy đồ dùng học tập về vị trí ngồi của mình, kết thúc tiết học tôi nhắc trẻ cất đồ dùng học tập vào vị trí ban đầu để từ đó rèn cho trẻ thói quen lấy và cất đồ dùng đúng nơi qui định. 
Ví dụ: Trong giờ học toán tôi đã chuẩn bị cho mỗi trẻ 1 rổ đồ dùng và 1 bảng học toán. Đồ dùng của trẻ tôi đặt ở các vị trí khác nhau và quy định với trẻ vị trí lấy và cất đồ dùng của từng tổ. Khi có nhạc hoặc hiệu lệnh trẻ sẽ lấy hoặc cất đồ dùng vào đúng vị trí theo quy định. Với những giờ học đầu năm cô hướng dẫn trẻ các thao tác lấy và cất đồ dùng dần dần hình thành cho trẻ có thói quen và kĩ năng lấy và cất đồ dùng trong mỗi hoạt động. 
Ví dụ: Khi đến giờ thể dục giờ học, chỉ cần nghe tiếng nhạc tập trung, trẻ tự cất đồ chơi, lấy dụng cụ tập và xếp hàng tập thể dục ngay ngắn. Với những trẻ chưa tự giác ra lấy dụng cụ tập thể dục, tôi nhẹ nhàng hỏi trẻ “ Con có biết mình còn thiếu gì không? Con tập thể dục với gì vậy?” hoặc tôi có thể nhờ chính những bạn ấy lấy giúp các cô rổ đựng dụng cụ ra sân. Dần dần trẻ sẽ chủ động, tự giác khi nghe nhạc tập thể dục sẽ đi mang giúp cô đồ ra sân trường sau đó sẽ lấy dụng cụ về hàng.
Ví dụ: Trong giờ học tạo hình tôi phân công cho các bạn tổ trưởng, nhóm trưởng lấy vở, lấy học liệu, rổ màu... cho các bạn trong nhóm của mình.  Được cô giáo phân công nhiệm vụ trẻ rất tích cực, hứng thú học chính vì vậy mà trẻ nào cũng luôn cố gắng thật ngoan để được giúp đỡ cô lấy đồ dùng cho bạn. Giờ học nào của lớp tôi đều thấy trẻ hứng thú từ đầu giờ học đến cuối giờ học. Từ việc hình thành cho trẻ các kĩ năng trong các hoạt động tôi đã rèn luyện cho trẻ thói quen gọn gàng ngăn nắp, lấy đâu cất đấy. 
2.3/ Thông qua hoạt động góc
Là một giáo viên mầm non chắc hẳn ai cũng biết mỗi khi đến giờ hoạt 
động hoạt động góc tất cả trẻ đều tỏ ra rất thích thú, phấn khởi. Vui chơi là hoạt động tạo cho trẻ nhiều hứng thú và cung cấp cho trẻ cơ hội được vận dụng những kiến thức, kĩ năng khác nhau vào giải quyết nhiệm vụ chơi. Trẻ được đóng nhiều vai trò khác nhau, trải nghiệm nhiều tình huống nảy sinh trong khi chơi. Hoạt động vui chơi là hoạt động mà trẻ thích nhất, dễ dàng rèn kĩ năng sống của trẻ qua các trò chơi và khắc sâu nhất trong tâm trí của trẻ. Trong hoạt động góc, trẻ được tự chọn góc chơi, tự phân vai chơi, tự lấy đồ chơi, và trẻ phải thực hiện theo đúng nội quy góc chơi. 
Ví dụ: Khi được chơi ở góc nấu ăn, trẻ tự thỏa thuận và phân vai chơi. Trẻ được sử dụng các dụng cụ nấu ăn để chế biến các món ăn. Qua đó, cô cung cấp cho trẻ các kĩ năng khi sử dụng bếp ga hoặc khi đun nấu, cách sử dụng dao cho phù hợp để giúp trẻ có khả năng tự bảo vệ bằng cách đạt câu hỏi cho trẻ trong quá trình bao quát trẻ chơi như: “Tại sao bác lại phải đeo tạp dề và đội mũ khi nấu?’ “ Khi đang đun muốn bắc nồi ra thì phải dùng gì để lót? Tại sao?” “ Trước khi xào rau thì phải làm gì?”. Khi đã hình thành được cho trẻ những kĩ năng ban đầu thì dần dần khi tổ chức cho trẻ chơi tôi không can thiệp quá 
sâu vào trò chơi của trẻ để trẻ bộc lộ khả năng tự phục vụ của mình. Khi trẻ tự chơi với các đồ chơi thì trẻ cũng lĩnh hội được những qui tắc hành vi ứng xử trong xã hội ẩn chứa trong quá trình hành động đó. Từ đó trẻ học được cách tự lập trong các thao tác hành động với đồ vật, giúp trẻ tự tin, tự lập hơn trong cuộc sống. 
Qua các vai chơi trên trẻ đã ghi nhớ và khắc sâu những công việc mà trẻ đã làm qua đó hình thành kĩ năng sống của trẻ một cách nhẹ nhàng, đơn giản mà hiệu quả.
Ví dụ: Thông qua việc cho trẻ chơi góc xây dựng tôi cũng đã giúp trẻ hình thành và phát huy tính tự chủ và sáng tạo. Trong quá trình chơi trẻ học cách làm việc theo nhóm mỗi người một việc để hoàn thành công trình, trẻ thích được đóng vai người lớn như bác kĩ sư xây dựng, bác thợ xâyqua đó trẻ học được cách chơi, thao tác vai phù hợp, cách ứng xử phù hợp của các vai chơi, mỗi vai chơi có một công việc khác nhau và đều phải hoàn thành thì góc chơi của mình mới có sản phẩm đẹp và sẽ dần hình thành tính tự giác trong trẻ.
Ảnh 2: Trẻ chơi góc xây dựng
2.4/ Thông qua hoạt động ăn, ngủ
Văn hóa trong ăn uống là một trong những tiêu chí đánh giá nhân cách của con người. Chính vì vậy mà việc rèn cho trẻ thói quen hành vi trong ăn uống ngay từ lứa tuổi mẫu giáo là rất cần thiết. Thực tế cho thấy rằng việc rèn cho trẻ thói quen, hành vi trong ăn uống trong khi tổ chức cho trẻ ăn mang lại hiệu quả cao nhất. Thông qua giờ ăn giáo viên có thể dạy trẻ kĩ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập. 
* Trước giờ ăn: Tôi phân công cho trẻ trong tổ trực nhật giúp cô phơi khăn, cùng cô kê bàn ăn, giúp cô mang khay thìa, khăn lau về nhóm. Dạy trẻ biết xếp hàng tự rửa tay sạch sẽ, lau tay, lau mặt.
* Trong khi ăn:
Qua trao đổi với phụ huynh tôi được biết rất nhiều cháu hàng ngày vẫn được ông bà, bố mẹ chiều chuộng xúc cho trong bữa ăn tại gia đình. Thời gian đầu nhận lớp tình trạng trẻ lớp tôi ngồi chờ cô giáo xúc ăn còn rất nhiều. Tôi thấy rằng việc rèn cho trẻ tự giác xúc ăn cũng là một kĩ năng tự phục vụ mà tôi muốn rèn cho trẻ. phát huy tính tích cực cho trẻ. Với các 

File đính kèm:

  • docgiao_duc_mau_giao_nguyen_thi_thu_hienmn_duong_ha_21520209.doc