Sáng kiến kinh nghiệm Một Số biện pháp rèn trẻ 4-5 tuổi kĩ năng tự phục vụ
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Kĩ năng sống là kĩ năng cần thiết cho tất cả mọi người, mọi lứa tuổi và phải được hình thành từ khi còn nhỏ. Con người luôn cần những kĩ năng cơ bản từ kĩ năng tự phục vụ bản thân đến những kĩ năng giúp ích cho công việc. Giáo dục kĩ năng sống có tác dụng tích cực trong việc ngăn ngừa các hành vi lệch lạc của trẻ. Các kĩ năng sống nhất là kĩ năng tự phục vụ bản thân chủ yếu hình thành trong môi trường gia đình và hình thành ngay từ khi còn nhỏ sẽ giúp hình thành nhân cách tốt sau này ở trẻ.
Thực tế cho thấy xã hội hiện đại ngày nay trẻ em thường được bao bọc và làm hộ cho rất nhiều việc, những công việc hết sức bình thường đơn giản tự phục vụ như tự rửa mặt, đánh răng, tự xỏ giầy, tự xúc cơm ăn rất ít trẻ tự tin làm được và trẻ cũng không được cho cơ hội để tự làm điều đó. Tôi thiết nghĩ nguyên nhân tình trạng này đến từ đâu? Từ trẻ hay từ chính tư duy của người lớn chúng ta?
Bản thân tôi cũng là một bà mẹ, có hai người con trai. Sai lầm tôi nhận ra khi nuôi và chăm sóc bé đầu lòng đó là quá cưng chiều con, tôi làm giúp cho con mọi việc, con có nhu cầu muốn tự xỏ giày, tự lựa chọn quần áo để mặc theo ý thích, tự đánh răng, giúp mẹ quét nhà,. vì nhu cầu khẳng định bản thân và mong muốn bắt chước hành vi của người lớn khi ở độ tuổi 4-5 tuổi rất cao. Nhưng chính vì sai lầm muốn bao bọc, chiều chuộng con và không tin vào khả năng của con nên đến bây giờ con trai tôi đã 13 tuổi nhưng cháu không có suy nghĩ tự làm nhiều việc, ích kỉ, vụng về, lười biếng, thiếu tự tin và có thói quen ỉ lại vào sự giúp đỡ của người lớn.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHĨA HƯNG TRƯỜNG MẦM NON NGHĨA LÂM BÁO CÁO SÁNG KIẾN “MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN TRẺ 4-5 TUỔI KỸ NĂNG TỰ PHỤC VỤ” Lĩnh vực/cấp học: Phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội/GDMN Tác giả: Lê Thị Thục Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm mầm non Chức vụ: Giáo viên Nơi công tác: Trường Mầm non xã Nghĩa Lâm Nghĩa Lâm, ngày 09 tháng 6 năm 2020 THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “ Một Số biện pháp rèn trẻ 4-5 tuổi kĩ năng tự phục vụ” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: ( Từ ngày 16 tháng 8 năm 2019 đến 10 tháng 6 năm 2020) 4. Tác giả: Họ và tên: Lê Thị Thục Năm sinh: 1985 Trình độ chuyên môn: Đại học SPMN Chức vụ: Giáo viên Nơi làm việc: Trường Mầm non Nghĩa Lâm Địa chỉ liên hệ: Trường Mầm non Nghĩa Lâm Điện thoại : 0986310987 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường mầm non xã Nghĩa Lâm Địa chỉ: Xã Nghĩa Lâm – Nghĩa Hưng – Nam Định. Điện thoại: 02283723673. BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Kĩ năng sống là kĩ năng cần thiết cho tất cả mọi người, mọi lứa tuổi và phải được hình thành từ khi còn nhỏ. Con người luôn cần những kĩ năng cơ bản từ kĩ năng tự phục vụ bản thân đến những kĩ năng giúp ích cho công việc. Giáo dục kĩ năng sống có tác dụng tích cực trong việc ngăn ngừa các hành vi lệch lạc của trẻ. Các kĩ năng sống nhất là kĩ năng tự phục vụ bản thân chủ yếu hình thành trong môi trường gia đình và hình thành ngay từ khi còn nhỏ sẽ giúp hình thành nhân cách tốt sau này ở trẻ. Thực tế cho thấy xã hội hiện đại ngày nay trẻ em thường được bao bọc và làm hộ cho rất nhiều việc, những công việc hết sức bình thường đơn giản tự phục vụ như tự rửa mặt, đánh răng, tự xỏ giầy, tự xúc cơm ăn rất ít trẻ tự tin làm được và trẻ cũng không được cho cơ hội để tự làm điều đó. Tôi thiết nghĩ nguyên nhân tình trạng này đến từ đâu? Từ trẻ hay từ chính tư duy của người lớn chúng ta? Bản thân tôi cũng là một bà mẹ, có hai người con trai. Sai lầm tôi nhận ra khi nuôi và chăm sóc bé đầu lòng đó là quá cưng chiều con, tôi làm giúp cho con mọi việc, con có nhu cầu muốn tự xỏ giày, tự lựa chọn quần áo để mặc theo ý thích, tự đánh răng, giúp mẹ quét nhà,.. vì nhu cầu khẳng định bản thân và mong muốn bắt chước hành vi của người lớn khi ở độ tuổi 4-5 tuổi rất cao. Nhưng chính vì sai lầm muốn bao bọc, chiều chuộng con và không tin vào khả năng của con nên đến bây giờ con trai tôi đã 13 tuổi nhưng cháu không có suy nghĩ tự làm nhiều việc, ích kỉ, vụng về, lười biếng, thiếu tự tin và có thói quen ỉ lại vào sự giúp đỡ của người lớn. Là giáo viên mầm non phụ trách lớp 4-5 tuổi và từ sai lầm khi nuôi con của mình tôi nhận ra rằng trẻ biết tự phục vụ sẽ dễ dàng giúp trẻ hòa nhập với môi trường mới, trẻ tích cực, chủ động, sáng tạo và tự tin khi bước ra cuộc sống sau này. Chính những trăn trở đó nên tôi quyết định nghiên cứu và áp dụng đề tài: “ Một số biện pháp rèn trẻ 4-5 tuổi kĩ năng tự phục vụ” vào nhóm lớp của mình trong suốt năm học 2019- 2020. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến 1.1. Hiện trạng: - Đầu năm học 2019- 2020 tôi được phân công là giáo viên phụ trách lớp 4-5 tuổi, tôi luôn nhận được sự chỉ đạo quan tâm sát sao từ các đồng chí trong Ban giám hiệu nhà trường. - Lớp tôi có 26 trẻ, đa số trẻ đều ngoan ngoãn, thích hoạt động, vui chơi, nhanh nhẹn, đặc biệt trẻ được thay đổi môi trường lớp học khi từ lớp mẫu giáo 3 tuổi lên lớp mẫu giáo 4 tuổi , được làm quen với cô giáo mới, bạn mới nên đa số trẻ thích giao lưu, tìm hiểu những người xung quanh mình và tò mò về môi trường xung quanh lớp học. 1.2 Ưu điểm : - Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu về chuyên môn, hướng dẫn và cung cấp cho tôi nhiều tài liệu chuyên môn, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên, các văn bản chỉ đạo về các kĩ năng chăm sóc giáo dục trẻ theo độ tuổi - Là một giáo viên có trình độ đại học sư phạm mầm non, có kinhnghiệm lâu năm trong nghề, cũng như có tinh thần học hỏi, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy trẻ làm trung tâm rất cao. - Tôi có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, luôn có tinh thần học hỏi đồng nghiệp và tìm hiểu trên các trang mạng, các tạp trí giáo dục mầm non về cách chăm sóc và giáo dục trẻ - Các bậc phụ huynh rất quan tâm đến con em mình, nhiệt tình ủng hộ các chương trình và phong trào nhà trường tổ chức. Yêu quý giáo viên.Số lượng trẻ nhóm lớp tôi không quá đông, ngoan và lễ phép nên quá trình trò chuyện và giao lưu với trẻ thực hiện dễ dàng. - Trẻ đã có nền tảng trong kĩ năng tự phục vụ từ lớp 3 tuổi, đã khá quen với chế độ sinh hoạt ở trường nên việc uốn nắn và hình thành thói quen tự phục vụ cho trẻ trở nên dễ dàng hơn. 1.3. Nhược điểm: - Do trường thiếu giáo viên nên một mình đứng lớp. - Trẻ ban đầu đến lớp còn nhút nhát, các kĩ năng tự phục vụ chưa thuần thục và cô vẫn phải giúp đỡ nhiều. - Nhiều trẻ vẫn còn được quá cưng chiều khi ở nhà nên những kĩ năng tự phục vụ của trẻ còn yếu, thích dựa dẫm vào người lớn, có tâm lí ích kỉ và ỉ lại. - Do thói quen nuông chiều không tốt ở nhà và đáp ứng mọi nhu cầu dù là nhu cầu không tốt cho trẻ như: Cho xem điện thoại rồi mới ăn cơm, một số trẻ không tự lấy và cất đồ dùng của mình nếu bố mẹ không mua bánh kẹo, Bim bim, đồ chơi,...,thậm trí đầu năm học có trẻ còn chưa tự cầm thìa xúc cơm ăn - Người lớn thường không hoặc ít tạo cơ hội cho trẻ được khẳng định mình, thể hiện nhu cầu và mong muốn của bản thân. Áp đặt suy nghĩ và quyết định của trẻ theo ý mình. - Một số phụ huynh, nhất là những cháu bố mẹ đi làm xa ở nhà với ông bà thường phó mặc chuyện giáo dục và chăm sóc trẻ cho cô giáo. - Giáo viên tuy đã ý thức được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ nhưng đa số giáo viên còn ngại khó, sợ tốn nhiều thời gian và công sức vào việc luyện tập cho trẻ. Bởi vì trẻ thực hiện còn lóng ngóng, vụng về - Giáo viên chưa có sự đầu tư đúng mực cho việc rèn luyện kĩ năng tự phục vụ. - Nhiều phụ huynh còn chưa hiểu được tầm quan trọng của việc rèn trẻ kĩ năng tự phục vụ bản thân. BẢNG I : TRẺ CÓ KĨ NĂNG TỰ PHỤC VỤ BẢN THÂN ĐẦU NĂM STT Tiêu chí khảo sát Kết quả Số lượng Tỉ lệ % 1 Tự cầm ca cốc lấy nước uống 18/26 69 2 Tự xúc cơm ăn 20/26 77 3 Cất yếm, lau miệng sau khi ăn 22/26 84 4 Cùng cô kê sạp ngủ, kê bàn ăn 10/26 38 5 Tự cất và lấy giầy dép ở giá 18/26 69 6 Tự dán ảnh điểm danh và cất đồ dùng cá nhân 20/26 77 7 Tự rửa mặt, rửa tay 19/26 73 8 Dọn cất bát thìa sau khi ăn 23/26 88 9 Cất dọn đồ chơi sau khi chơi 16/26 61 10 Khả năng trẻ tự làm mà giáo viên không cần phải nhắc nhở 12/26 46 2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến 2.1. Xây dựng mục tiêu giáo dục rèn luyện kĩ năng tự phục vụ cho trẻ. Trong kế hoạch giáo dục của mình tôi lựa chọn và xây dựng các mục tiêu phù hợp theo chủ đề từ dễ đến khó phù hợp để thiết kế các nội dung hoạt động rèn dạy trẻ theo độ tuổi. Mục tiêu cũng là công cụ giúp tôi đánh giá kết quả giáo dục trên trẻ nhằm thực hiện chế độ chăm sóc và giáo dục trẻ tốt hơn nữa. Trong mỗi chủ đề tôi đều lựa chọn các mục tiêu phù hợp. Về kĩ năng tự phục vụ bản thân, tôi đan cài lồng ghép trong các lĩnh vực giáo dục phát triển thể chất, giáo dục phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội để giáo dục cho trẻ. Ví dụ: Ví dụ: Ở chủ đề: Dinh dưỡng sức khỏe và an toàn, tôi đưa ra một số mục tiêu ở các lĩnh vực phát triển để rèn dạy trẻ một số kỹ năng cần đạt được ở cuối chủ đề. Cụ thể: Các lĩnh vực phát triển Mục tiêu giáo dục Nội dung giáo dục 1. Lĩnh vực phát triển thể chất MT 8.Tự cài, cởi cúc, kéo phéc mơ tuya CS9). - Trẻ biết tự cởi cúc áo và cài cúc áo một cách nhanh nhẹn và đúng cách - Trẻ biết kéo phéc mơ tuya một cách khéo léo và đúng cách. 2. Lĩnh vực phát triển tình cảm quan hệ xã hội MT5.2 . Trẻ biết bỏ rác đúng nơi quy định . Trẻ biết giữ vệ sinh chung. - Trẻ biết nhặt rác bỏ vào đúng nơi quy định 3. Lĩnh vực phát triển thẩm mỹ MT 83. Có một số kĩ năng tạo hình đơn giản:Vẽ các nét thẳng, xiên, ngang,...tô màu, xé,cắt theo đường thẳng, cong tạo thành bức tranh đơn giản,(CS34). - Trẻ biết cầm bút màu vẽ các nét thẳng, xiên, ngang... và tô màu tạo ra sản phẩm đơn giản đẹp theo ý thích của trẻ - Trẻ biết dùng kéo để cắt theo đường thẳng, cong để tạo ra sản phẩm đơn giản Sau đó tôi sẽ theo dõi ghi chép lại những trẻ nào đã thực hiện tốt, trẻ nào thực hiện chưa tốt để tôi có biện pháp rèn trẻ, tạo thói quen thường xuyên và tích cực đến trẻ. Với mục tiêu 8 tôi sẽ cho trẻ thực hiện tốt lên làm mẫu và tuyên dương, sau đó cho trẻ là còn vụng về làm theo, nếu chưa được tôi vẫn khuyến khích và hướng dẫn trẻ làm “ con làm gần đúng rồi đó, mình làm lại lần nữa chắc sẽ được đấy” Mục tiêu 5.2 tôi sẽ trao đổi với bạn mà tôi theo dõi có ý thức tự giác, thực hiện tốt rủ bạn không có thói quen nhìn thấy rác hoặc hay vứt rác bừa bãi cùng nhặt rác hoặc dẫn bạn tới nơi quy định để bở rác vào đó. Cứ như thế với những mục tiêu của chủ đề khác tôi cũng kết hợp đưa vào các hoạt động nhằm dần rèn thói quen tự phục vụ cho trẻ 2.2. Đánh gía kĩ năng thực tế của trẻ và điều chỉnh kế hoạch giáo dục. Đánh giá sự phát triển của trẻ là quá trình thu thập thông tin về trẻ một cách có hệ thống và phân tích, đối chiếu với mục tiêu của Chương trình GDMN, nhận định về sự phát triển của trẻ nhằm điều chỉnh kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ một cách phù hợp. Nhằm xác định mức độ phát triển của trẻ so với mục tiêu của từng độ tuổi để có biện pháp thích hợp giúp trẻ tiến bộ. Ðánh giá trẻ thường xuyên giúp giáo viên có được các thông tin về sự tiến bộ của trẻ trong một thời gian dài. Xác định được những khó khăn, những nguyên nhân cụ thể trong sự phát triển của trẻ làm cơ sở để giáo viên đưa ra các quyết định giáo dục tác động phù hợp đối với trẻ; Đánh giá trẻ là cơ sở để tôi xác định những nhu cầu giáo dục cá nhân đứa trẻ, làm căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch tiếp theo. Và cũng là cơ sở để trao đổi, đưa ra những quyết định phối hợp trong giáo dục trẻ với cha mẹ trẻ. Những nội dung rèn dạy trẻ có đảm bảo đáp ứng nhu cầu hoàn thiện về kĩ năng cho trẻ 4-5 tuổi hay không để từ đó đưa ra những điều chỉnh phù hợp và sát với thực tế. Có như vậy hiệu quả của việc tổ chức rèn dạy kĩ năng tự phục vụ hay bất kì kiến thức kĩ năng nào khác mới đem lại hiệu quả thực sự. Việc đánh giá kết quả trên trẻ giúp tôi nắm bắt số liệu thực tế tình hình của trẻ. Nếu trẻ thực hiện đạt yêu cầu các tiêu chí về mục tiêu tôi đưa ra thì điều đó đồng nghĩa với việc phương pháp giáo dục và rèn dạy trẻ kĩ năng tự phục vụ của tôi đã thực sự đem lại hiệu quả. Và ngược lại nếu trẻ thực hiện không thuần thục hay thực hiện không tự nguyện và vui vẻ thì đồng nghĩa với việc các phương pháp tôi áp dụng trước đó đều không mang lại hiệu quả. Căn cứ vào tình hình thực tế như vậy để tôi điều chỉnh kế hoạch sao cho phù hợp. Quá trình đánh giá của tôi diễn ra hàng ngày. Tôi tự chuẩn bị cho mình một cuốn sổ tay ghi chép cá nhân và tôi luôn mang theo bên mình. Trong quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động trong ngày cùng trẻ tôi sẽ ghi chép thật nhanh chóng, cụ thể các vấn đề trên trẻ mà tôi quan sát được. Sau 1 ngày tôi có chuỗi những đánh giá xác thực để thực hiện đánh giá cuối ngày, đánh giá cuối chủ đề, đánh giá theo giai đoạn đầu năm, giữa năm và cuối năm học. Quan sát và ghi chép biểu hiện trong ngày của trẻ để làm cơ sở đánh giá trẻ cuối ngày Vào cuối mỗi ngày, tôi thực hiện đánh giá trẻ và ghi chép trong nhật kí cuối ngày trong kế hoạch giáo dục của mình theo các nội dung: Tình trạng sức khỏe của trẻ, trạng thái cảm xúc, thái độ và hành vi của trẻ; Kiến thức, kĩ năng của trẻ. Và có kế hoạch điều chỉnh cho ngày tiếp theo. Ví dụ: Thứ 2, ngày ... tháng...năm 2020. - Trẻ có sức khỏe hoàn toàn bình thường. Không có trẻ nghỉ ốm. - Cháu Gia Bảo ném đồ chơi, cháu Phương Thảo không muốn tham gia hoạt động thể dục sáng. - Các cháu nhận biết được hình vuông, hình tròn. Biết nhận dạng một số đồ vật có hình dạng tương ứng. Thiên, Lan Anh, Khoa chưa tập trung chú ý trong giờ học. ( thời gian tập trung 15p). - Đa số trẻ nhận biết được ca cốc, yếm, gối, tủ của mình và tự lấy cất đồ dùng. Duy Linh chưa có thói quen tự lấy, cất dép và balo của mình. Căn cứ vào các ghi chép trong ngày tôi thực hiện đưa ra phương án giải quyết cho các cháu vào ngày hôm sau. Như nhắc nhở Gia Bảo nhẹ nhàng trong các hoạt động chơi. Thực hiện chuyển góc chơi sang các góc tĩnh nếu Gia Bảo mắc lỗi nhiều lần hoặc có thể giáo dục cháu qua những mẩu chuyện nhỏ. Các cháu cần rèn dạy kĩ năng dài hạn xuyên suốt chủ đề mới có thể hoàn thiện kĩ năng tôi sẽ chú ý lồng ghép vào tất cả các hoạt động trong ngày khác. Như trường hợp cháu Duy Linh, hàng ngày tôi sẽ nhắc nhở cháu nhiều lần khi đón trả trẻ, khi cháu tham gia các hoạt động có thể lồng ghép đổi dép tôi cũng sẽ chú ý nhắc nhở cháu lấy cất dép và balo thường xuyên liên tục hàng ngày để tạo thói quen cho cháu. Cuối mỗi chủ đề tôi cũng thực hiện đánh giá trẻ các mục tiêu sau khi đóng chủ đề. Sau khi thực hiện dánh giá trẻ toàn diện trên các lĩnh vực khác nhau tôi cũng điều chỉnh kế hoạch giáo dục ở chủ đề sau sao cho phù hợp. Ví dụ: Sau khi đóng chủ đề: “Lớp mẫu giáo của bé”. Mục tiêu trẻ có kĩ năng tự rửa tay, rửa mặt thuần thục chỉ đạt ở mức 13/26 trẻ ( 50%) tôi lại tiếp tục đưa mục tiêu đó vào tiếp tục thực hiện ở chủ đề: “ Dinh dưỡng sức khỏe và an toàn- thời gian thực hiện 4 tuần”. Tôi thiết kế nội dung hoạt động và tích cực lồng ghép rèn dạy trẻ mục tiêu đó mọi lúc mọi nơi trong tất cả các hoạt động ở chủ đề tiếp theo sao cho mục tiêu đó đạt yêu cầu. Nếu mục tiêu đó đã đạt yêu cầu 100% trẻ thực hiện thuần thục sau 2 tuần đầu ở chủ đề: “ Dinh dưỡng sức khỏe và an toàn” tôi lại tiếp tục áp dụng mục tiêu mới vào rèn dạy trẻ trong 2 tuần tiếp theo. Việc làm này tương tự đối với việc điều chỉnh kế hoạch giáo dục, xây dựng mục tiêu giáo dục sau khi đánh giá trẻ theo các giai đoạn đầu năm, giữa năm và cuối năm học. 2.3. Trau dồi kinh nghiệm bản thân thông qua hình thức học tập bồi dưỡng thường xuyên theo tổ chuyên môn và tự học. Tôi tích cực tham gia và thảo luận đưa ra các ý kiến vào các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ, dạy dự giờ, tham gia hội giảng, trao đổi chuyên môn với bạn bè đồng nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn. Trẻ rất thích được gần gũi, mọi hoạt động của cô trẻ luôn ghi nhớ, bắt chước làm theo nếu trẻ yêu quý cô. Vì vậy tôi luôn phải chuẩn mực trong mọi lĩnh vực, là tấm gương cho trẻ. Tôi xây dựng cho mình phong cách nhẹ nhàng, tự tin giải quyết từng tình huống cụ thể. Trong khi giao tiếp với trẻ tôi luôn nhẹ nhàng, sử dụng danh từ xưng hô gần gũi: “Cô” và “con” để trao đổi với trẻ tạo cảm giác thân quen gần gũi và trẻ sẽ cảm thấy mình được yêu quý. Khi trẻ thấy tôi giặt khan, nhặt rác, cất đồ dùng hàng ngày và trẻ sẽ bắt chước theo hành vi đó khi gặp tình huống tương tự xảy ra. Tôi cũng không ngừng học tập, tự bồi dưỡng, đọc các tài liệu về giáo dục mầm non để có biện pháp, kĩ năng tốt, có hiểu biết cần thiết để rèn trẻ kĩ năng tự phục vụ, thường xuyên đọc các tạp chí chuyên sâu về giáo dục tâm lý của trẻ, mục tiêu, phương pháp của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non 2.4. Xây dựng chế độ sinh hoạt của nhóm lớp và nghiêm túc thực hiện đúng, đủ đều để rèn thói quen thường xuyên liên tục của trẻ. - Để hình thành thói quen nề nếp tốt cho trẻ tôi đã thực hiện: + Giờ đón trẻ: Tôi nhắc trẻ đổi, cất dép vào giá, lấy ảnh điểm danh và cất đồ dùng cá nhân để vào lớp Hình ảnh: Trẻ tự lấy và cất đồ dung cá nhân khi đến lớp + Giờ hoạt động học tôi yêu cầu trẻ lấy, cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định sau khi trẻ chơi xong, đồng thời tôi cũng đưa ra quy định với những bạn cố ý ỉ lại không tham gia cất dọn đồ chơi thì lần sau sẽ không cho bạn đó chơi ở nhóm đó. Hình ảnh: Trẻ tự lấy, cất đồ dùng đồ chơi khi tham gia các hoạt động Tôi đưa ra một số trò chơi khi muốn trẻ cất đồ dùng, đồ chơi gọn gàng như “ thi xem ai nhanh” vừa hát, vừa cất thi xem ai cất nhanh và gọn gàng trẻ sẽ thích thú hơn là ta quát mắng hay ra lệnh cho trẻ như “ hãy cất đồ chơi này cho cô ngay”. + Giờ chơi ngoài trời tôi rèn trẻ khả năng tự phục vụ phù hợp với trẻ như nhìn thấy rá, lá cây trẻ tự nhặt bỏ vào thùng, cùng cô nhặt cỏ, tưới cây, chăm sóc cây ngời vườn ươm, góc thiên nhiên. + Đến giờ ăn tôi chỉ cần gợi ý hỏi trẻ chuẩn bị tới giờ gì là trẻ sẽ tự giác đi rửa tay, rửa mặt, lấy yếm, kê ghế vào bàn ăn. Hình ảnh: Bé tự rửa tay, rửa mặt theo các bước Hình ảnh: Bé giúp cô xếp bát, lấy đĩa và khăn ăn chuẩn bị ăn + Với giờ ngủ trẻ sẽ tự lấy gối vào sạp ngủ, ngủ dậy trẻ sẽ tự cất gối vào tủ cá nhân, kê sạp cất đi. Hình ảnh: Bé tự lấy, cất gối trước và sau khi ngủ dậy Ngoài ra tôi còn lên lịch phân công trực nhật cho từng nhóm, từng ngày, giờ đón trẻ tôi yêu cầu nhóm ngày hôm đó trực nhật ra dán ảnh lựa chọn công việc mình sẽ làm trong ngày hôm đó như: kê bàn ăn, dọn đồ chơi ở tủ giá, phơi khăn, hỗ trợ cùng cô xếp bát thìa... Hình ảnh: Bé tự chọn công việc Hình ảnh: Bé phơi khăn giúp cô 2.5. Khích lệ, động viên trẻ kịp thời khi rèn trẻ kỹ năng tự phục vụ bản thân. * Cô cần là người quan sát, ghi nhận sự cố gắng nỗ lực của trẻ và kết quả sau mỗi lần cố gắng nỗ lực đó của trẻ. Trẻ em luôn cần được yêu thương và quan tâm, dù chỉ là những lời động viên, ánh mắt khích lệ, và nụ cười trìu mến của cô cũng đủ làm cho trẻ có động lực cố gắng thay đổi tốt đẹp hơn và nhận ra sự đúng sai trong hành vi của mình. Tôi thường sử dụng các hình thức khen ngợi và khích lệ động viên như tuyên dương trước lớp, thưởng hoa bé ngoan, nêu gương bé ngoan cuối tuần và khen ngợi hành vi tốt của trẻ trước mặt cha mẹ trẻ. Thông tin cho trẻ biết những điều tôi suy nghĩ về hành động tốt hay chưa tốt ở trẻ để trẻ biết và biết được mình cần phải điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp. Ví dụ: Hôm nay Duy Linh Tự lấy cất balo của mình rồi! con giỏi quá, cô rất vui khi con làm như vậy! Tùy vào từng trường hợp cụ thể, nếu trẻ làm lần 1 làm chưa tốt cô hỗ trợ động viên, lần 2 trẻ làm tốt hơn cô sẽ khen ngợi, khích lệ trẻ, lần 3 trẻ thực hiện thành thạo cô đưa trẻ đó ra làm gương trước lớp để trẻ khác hiểu ra tầm quan trọng và ý nghĩa của việc làm tự phục vụ bản thân. * Xây dựng mối quan hệ thân thiện và tích cực giữa giáo viên với trẻ. Mối quan hệ thân thiện và gần gũi sẽ xóa đi những khoảng cách giữa cô và trẻ, sẽ làm cho trẻ tự tin thể hiện mong muốn của bản thân. Mối quan hệ qua lại giữa cô và trẻ cần được bồi dưỡng tốt đẹp lên trong chính cách giao tiếp hàng ngày thể hiện sự gần gũi, tôn trọng yêu thương trẻ. Một đứa trẻ nếu cảm nhận được những việc làm của mình có ích và tích cực thì đứa trẻ sẽ cảm thấy như mình được khích lệ và được đón nhận trẻ sẽ có cảm giác được tôn trọng và tự hào. Và còn tự cảm nhận được trách nhiệm của chính mình. Đây cũng là cách để tôi bồi dưỡng trẻ coi những hành vi tự phục vụ bản thân là trách nhiệm của chính mình làm cho trẻ yêu thích hào hứng tham gia các hoạt động, nhất là các công việc tự phục vụ bản thân. Ví dụ: Khi tôi đang lau dọn lớp sau giờ ăn trưa của trẻ, bạn Thế Huynh có đến cạnh tôi và nói: “ Cô ơi! Để con làm cho”. Tôi liền vui vẻ đưa cây lau nhà cho Huynh và nói: “ Tốt quá! Con làm đi”, Bé cầm cây lau nhà đi khắp lớp, lau sau một hồi bé nói với tôi: “ Cô ơi! Con lau xong rồi”. Tôi liền khen: “ Con làm tốt lắm!” Mặc dù bé chỉ lôi cây lau nhà và đi lòng vòng quanh lớp. Sau lần đó tôi thấy Huynh mạnh dạn thể hiện mong muốn của bản thân hơn, yêu thích công việc tự phục vụ và giúp đỡ cô những công việc khác vừa sức. Qua đó có thể thấy ý nghĩa của việc tôn trọng mong muốn được thể hiện bản thân của trẻ và để trẻ được tham gia quan trọng hơn so với hiệu suất làm việc của chúng ta. Tuy rằng có thể trẻ làm chưa tốt nhưng hành động của trẻ được khích lệ thì trẻ sẽ cảm thấy mình là một người rất có gía trị, trẻ tự tin vì đã hoàn thành dược một công việc tốt cho mình hoặc giúp đỡ người người khác. Đối với những trẻ chưa có ý thức trong việc tự phục vụ tôi sẽ cho những trẻ thành thạo kĩ nang tự phục vụ giúp đỡ và hướng dẫn trẻ đó. Trong khi đó tôi sẽ tuyên dương, khích lệ, khen ngợi để trẻ yếu đó cố gắng dù trẻ chỉ hoàn thành ở mức sơ sài, chưa chau chuốt ví dụ n
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_tre_4_5_tuoi_ki_n.docx