Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm trong việc giúp trẻ 5 – 6 tuổi nâng cao khả năng cảm thụ văn học

 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“Một số kinh nghiệm trong việc giúp trẻ 5 – 6 tuổi

nâng cao khả năng cảm thụ văn học”.

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài:

 Bác Hồ kính yêu của chúng ta khi còn sống Bác rất quan tâm đến mọi người, nhất là các cháu thiếu niên nhi đồng. Bác chú trọng từ bữa ăn, giấc ngủ và sự tiến bộ của các cháu. Bác hồ nói:

“Trẻ thơ như búp trên cành

Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”

Đúng như vậy, trẻ ở tuổi mầm non thật đáng yêu, tâm hồn trẻ thơ ngây, hồn nhiên như tờ giấy trắng và những cô giáo mầm non chính là những người tạo nên nét vẽ đầu tiên trên tờ giấy trắng đó. Vì vậy giáo dục mầm non có ý nghĩa rất lớn đến sự phát triển của trẻ sau này.

Giáo dục Mầm non được coi là mắt xích đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân; nó là cơ sở, là bậc học nền móng cho những giai đoạn tiếp theo của trẻ. Giáo dục Mầm non đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ: đức, trí, thể, mĩ Trẻ nhỏ luôn có nhu cầu giao tiếp với xung quanh. Việc nắm được những tri thức khoa học giúp trẻ có một nhân cách toàn diện phù hợp với yêu cầu xã hội đề ra. Vì vậy đối với lứa tuổi này chúng ta cần chú trọng phát triển cho trẻ về mọi mặt trong đó nâng cao khả năng cảm thụ văn học cho trẻ 5 – 6 tuổi là công việc vô cùng cần thiết và quan trọng của giáo viên.

 

docx30 trang | Chia sẻ: haiyen55 | Lượt xem: 902 | Lượt tải: 0Download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm trong việc giúp trẻ 5 – 6 tuổi nâng cao khả năng cảm thụ văn học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“Một số kinh nghiệm trong việc giúp trẻ 5 – 6 tuổi
nâng cao khả năng cảm thụ văn học”.
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
 Bác Hồ kính yêu của chúng ta khi còn sống Bác rất quan tâm đến mọi người, nhất là các cháu thiếu niên nhi đồng. Bác chú trọng từ bữa ăn, giấc ngủ và sự tiến bộ của các cháu. Bác hồ nói: 
“Trẻ thơ như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”
Đúng như vậy, trẻ ở tuổi mầm non thật đáng yêu, tâm hồn trẻ thơ ngây, hồn nhiên như tờ giấy trắng và những cô giáo mầm non chính là những người tạo nên nét vẽ đầu tiên trên tờ giấy trắng đó. Vì vậy giáo dục mầm non có ý nghĩa rất lớn đến sự phát triển của trẻ sau này.
Giáo dục Mầm non được coi là mắt xích đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân; nó là cơ sở, là bậc học nền móng cho những giai đoạn tiếp theo của trẻ. Giáo dục Mầm non đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ: đức, trí, thể, mĩ  Trẻ nhỏ luôn có nhu cầu giao tiếp với xung quanh. Việc nắm được những tri thức khoa học giúp trẻ có một nhân cách toàn diện phù hợp với yêu cầu xã hội đề ra. Vì vậy đối với lứa tuổi này chúng ta cần chú trọng phát triển cho trẻ về mọi mặt trong đó nâng cao khả năng cảm thụ văn học cho trẻ 5 – 6 tuổi là công việc vô cùng cần thiết và quan trọng của giáo viên. 
	Văn học là người bạn không thể thiếu đối với trẻ thơ nhất là lứa tuổi mẫu giáo. Nó đem lại cho trẻ những hiểu biết đầu tiên về cuộc sống xung quanh, giúp tâm hồn biết hướng tới cái thiện, cái đẹp, yêu quý cuộc sống . Văn học nuôi dưỡng và phát triển ở trẻ trí tưởng tượng, sáng tạo nghệ thuật. Vì vậy việc đem tác phẩm văn học đến cho trẻ là một việc rất quan trọng và cần thiết. Đối với trẻ mẫu giáo, quá trình được tiếp xúc với tác phẩm văn học phải từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, để từ đó trẻ bộc lộ khả năng cảm thụ văn học của minh. Khả năng cảm thụ đó là sự phát triển trực tiếp của trẻ về các lĩnh vực: Nhận thức – ngôn ngữ - tình cảm xã hội. Tuy nhiên khi đưa tác phẩm đến cho trẻ đòi hỏi người giáo viên phải có những suy nghĩ sáng tạo và lựa chọn những tác phẩm hay phù hợp với lứa tuổi, có ý nghĩa giáo dục trẻ để từ đó đưa ra những phương pháp, biện pháp thích hợp nhằm giúp trẻ phát triển tốt khả năng cảm thụ tác phẩm văn học.
 Văn học là một loại hình nghệ thuật mà trẻ thơ được tiếp xúc từ rất sớm. Ngay từ tuổi ấu thơ, các em đã được làm quen với các giai điệu nhẹ nhàng, tha thiết của lời hát ru. Lớn hơn một chút, các câu chuyện dân gian, các tác phẩm thơ truyện hiện đại đó gieo vào lòng các em sự yêu mến với thế giới xung quanh, giúp các em hiểu về truyền thống lao động, chiến đấu bền bỉ nhưng vô cùng anh dũng của dân tộc. Thơ, truyện cũng dắt các em đi khắp mọi miền đất nước, giới thiệu cho các em những danh lam thắng cảnh nối tiếng của dân tộc cũng như trên thế giới.
 Cùng với việc mở rộng nhận thức về thiên nhiên, truyện, thơ cũng mở rộng nhận thức cho các em về xã hội. Qua đó trẻ em biết được tình cảm yêu thương vô bờ bến mà tất cả những người làm mẹ đều dành cho con của mình (Mẹ của em), nỗi vất vả khó nhọc của người nông dân để làm ra thóc gạo (Hạt gạo làng ta, Bác nông dân), công lao của các cô chú công nhân (Chiếc cầu mới), quá trình sản xuất ra những đồ dùng, dụng cụ cần thiết trong sinh hoạt hàng ngày (Cái bát xinh xinh), có làm việc các em mới biết quý những giọt mồ hôi của mình, mới biết trân trọng những sản phẩm do mình làm ra (Cây rau của Thỏ út), truyền thống chống giặc ngoại xâm anh hùng của cha ông (Sự tích Hồ Gươm, Thánh Gióng), những phong tục tập quán tốt đẹp cũng đến với tuổi thơ qua những tác phẩm văn học: “Sự tích bánh chưng, bánh dày” từ đó các em biết định hướng tới những gì mình mong muốn được làm sau này (Ước mơ của Tý), (Làm nghề như bố)....
Văn học là một phương tiện giáo dục hiệu nghiệm. Hình tượng văn học có sức mạnh lôi cuốn trẻ thơ. Nó có tác động mạnh mẽ lên tình cảm của các em. Những bài học đến với các em tự nhiên không gò bó, không mang tính giáo huấn bắt buộc. Trẻ em nhận ra tình yêu thương của ông bà, cha mẹ đối với các em qua sự chăm sóc ân cần chu đáo: Bà quạt cho Tích Chu ngủ, có thức gì ngon bà dành cho Tích Chu (Tích Chu); Mẹ dặn phải đi theo mẹ, theo bầy (Chú vịt xám)Từ đó các em cũng biết quý trọng ông bà, cha mẹ. Trẻ thơ sẽ học những hành động đẹp đối xử với anh, chi, em, bạn bè. Các em sẽ biết nhường nhịn, giúp đỡ người thân cũng như bạn bè ngoài xã hội, Những tình cảm lớn lao như yêu tổ quốc yêu đồng bào.
Văn học góp phần không nhỏ vào việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ. Các em cảm nhận những vẻ đẹp trong mối quan hệ giữa người với người (Giúp bà), vẻ đẹp trong các hành động cao thượng của các nhân vật trong tác phẩm. Những tác phẩm viết về đề tài thiên nhiên tạo cho các em sự rung cảm đối với vẻ đẹp của tự nhiên.
 Tiếp xúc với văn học cũng giúp các em làm quen với ngôn ngữ giàu đẹp của dân tộc. Đây là điều kiện giúp các em phát triển vốn từ, rèn luyện cách nói diển cảm, cách nói giàu hình ảnh quen thuộc của cha ông. 
 Văn học có ý nghĩa rất lớn đối với giáo dục trẻ thơ. Chúng ta cần biết lựa chọn và sử dụng một cách thích hợp để tác phẩm văn học phát huy được tác dụng.
Cha ông ta có câu:
“Uốn cây từ thưở còn non
Dạy con từ thưở con còn ngây thơ”
 Đối với văn học, muốn có những tài năng tương lai cho đất nước ngay từ buổi ban đầu ta cần đưa giáo dục khả năng cảm thụ văn học vào các trường mầm non, góp phần hình thành bước đầu nhân cách trẻ. 
 Trường mầm non chúng tôi trong nhiều năm qua đã đạt được nhiều kết quả cao trong chăm sóc giáo dục trẻ, phát triển được mọi mặt cho trẻ. Tuy nhiên vẫn có một số vấn đề chưa được như mong muốn đó làm thế nào để nâng cao khả năng cảm thụ văn học cho trẻ 5 - 6 tuổi, khả năng cảm thụ văn học ở trẻ chưa cao và còn hạn chế trong môn văn học. Chính vì vậy việc tìm ra các biện pháp, giải pháp để nâng cao cảm thụ trong hoạt động văn học là vô cùng cần thiết. Trẻ đều đã được làm quen với một số tác phẩm văn học ở khối bé, khối nhỡ. Song không vì thế mà đa số trẻ đều cảm nhận được cái hay cái đẹp trong mỗi tác phẩm văn học. Do đó trong quá trình giảng dạy cũng như việc truyền thụ những kiến thức kỹ năng cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tôi nhận thấy: Khả năng cảm thụ văn học của trường tôi nói chung và khối 5 tuổi nói riêng, vẫn còn nhiều hạn chế, kết quả trên tiết học chỉ đạt 60-70%. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi đã trăn trở và đi đến lựa chọn đề tài nghiên cứu “Một số kinh nghiệm trong việc giúp trẻ 5 – 6 nâng cao khả năng cảm thụ văn học”.
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn về biện pháp nâng cao khả năng cảm thụ trong hoạt động văn học của trẻ 5 tuổi. Đề xuất một số biện pháp nâng cao khả năng cảm thụ trong hoạt động văn học của trẻ, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở bậc học mầm non.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số kinh nghiệm trong việc giúp trẻ 5 – 6 nâng cao khả năng cảm thụ văn học.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường mầm non 
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với mục đích để nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở độ tuổi mầm non với mục đích giáo dục và trình độ nhận thức của trẻ.
 Nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích giúp tôi cũng như các giáo viên khác rút ra những kinh nghiệm cho bản thân tìm hiểu nguyên nhân thành công và hạn chế để từ đó đề xuất các biện pháp để khắc phục những hạn chế, cải thiện chất lượng giờ dạy, phát huy thế mạnh sẵn có vận dụng vào thực tế để góp phần nhỏ nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ngày một tốt hơn. 
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ những kiến thức lý luận về cảm thụ văn học và tìm hiểu thêm về thực trạng, nghiên cứu đưa ra các biện pháp hữu ích để nâng cao chất lượng
4. Giả thuyết khoa học
	Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tôi đưa ra giả thuyết:
	Nếu như có đủ đồ dùng dạy học và áp dụng công nghệ thông tin một cách thành thạo thì sẽ nâng cao việc cảm thụ văn học cho trẻ một cách tích cực.
Nếu phối hợp tốt giữa gia đình, nhà trường trong việc giáo dục trẻ làm quen với văn học thì chất lượng cảm thụ văn học cho trẻ sẽ đạt hiệu quả cao. Đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và nâng cao của trẻ.
Nếu giáo viên có khả năng cảm thụ văn học tốt hơn, biết lồng ghép tích hợp linh hoạt sáng tạo hơn, sử dụng đồ dùng dạy học chưa có khoa học hơn thì sẽ góp phần vào việc nâng cao khả năng cảm thụ văn học cho trẻ đạt hiệu quả cao hơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu sử dụng tài liệu 
5.2. Phương pháp tuyên truyền với các bậc phụ huynh 
5.3. Phương pháp quan sát 
5.4. Phương pháp thực nghiệm 
5.5. Phương pháp đàm thoại 
5.6. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm 
6. Những đóng góp mới của đề tài
Với những phương pháp mà tôi đã áp dụng khá thành công, tôi mong muốn rằng những phương pháp này sẽ được bạn bè, đồng nghiệp tham khảo, vận dụng và áp dụng vào thực tế của mình góp phần vào việc nâng cao khả năng cảm thụ văn học cho trẻ một cách tích cực hơn và đạt được hiệu quả hơn. 
Vận dụng một số biện pháp này sẽ phát huy năng lực cảm thụ văn học của trẻ giúp cho giáo viên đóng góp tính chủ động, sáng tạo trong giảng dạy
Đề tài bước đầu góp phần thực hiện yêu cầu về đổi mới phương pháp giáo dục, một vấn đề mang tính chiến lược trước yêu cầu của cải cách giáo dục.
 PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
1. Cơ sở lý luận:
 Trong sự nghiệp trồng người ở các cấp học, bậc học luôn tìm tòi đổi mới về nội dung, hình thức, phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng dạy và học tốt hơn. Trong đó bậc học mầm non đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp trồng người. Đối tượng của giáo viên mầm non là trẻ nhỏ, hoàn toàn còn non trẻ, nhạy cảm với các tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc phát triển rất nhanh về mọi mặt, cả về thể chất lẫn tinh thần và trí tuệ. Đây cũng là giai đoạn khởi điểm của việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Các mặt phát triển toàn diện của trẻ hòa quyện đan xen vào nhau, ảnh hưởng đến nhau không tách rời rõ nét. Cho nên cho trẻ bước đầu làm quen với các môn học người giáo viên mầm non mang trách nhiệm của người thiết kế, thi công đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách con người ở lứa tuổi mầm non.
Làm quen văn học là môn rất quan trọng đối với trẻ mầm non, là phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ có đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn đạt gãy gọn biết sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, không những thế mà việc dạy trẻ làm quen với những từ ngữ nghệ thuật như từ tượng hình, từ tượng thanh giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng tư duy độc lập trong suy nghĩ. Thông qua nội dung các tác phẩm giáo dục trẻ biết yêu quý người hiền lành, biết ơn và kính yêu ông bà, bố mẹ, anh chị, bạn bè, biết nhường nhịn em nhỏ.
Xuất phát từ những vai trò cụ thể đó cho nên hoạt động dạy trẻ làm quen với văn học là môn học không thể thiếu trong trương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Vì vậy việc nâng cao khả năng cảm thụ văn học là vấn đề quan trọng trong đổi mới hình thức tổ chức giáo dục mầm non. 
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học có vai trò vô cùng to lớn trong việc giáo dục toàn diện nhân cách cho trẻ em cả về đạo dức, trí tuệ, thẩm mỹ nó ảnh hưởng trực tiếp tới tâm hồn trẻ thơ, làm quen với tác phẩm văn học là trẻ được làm quen với vạn vật, với thiên nhiên đầy bí ẩn diệu kỳ, trẻ được làm quen với những con vật ngộ nghĩnh đáng yêu, trẻ được thể hiện tính cách sắc thái, cử chỉ, điệu bộ, giọng điệu các nhân vật mà mình sắm vai từ đó trẻ biết khen, chê, biết đúng, sai, thiện ác để trẻ có thể tích lũy được kinh nghiệm sống cho mình và làm thế nào để trẻ có thể cảm thụ những tác phẩm văn học một cách tốt nhất toàn diện nhất đây cũng chính là bài toán cần lời giải cho các giáo viên mầm non. 
Trường mầm non nơi tôi công tác là một trường thuộc khu vực miền núi, trình độ dân trí của người dân cũng chưa cao, điều kiện kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn, việc đầu tư hỗ trợ xây dựng về cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động còn hạn chế, đồ dùng đồ chơi trang thiết bị phục vụ cho môn học cũng chưa đáp ứng với chương trình đổi mới hiện nay. Vì vậy đứng trước khó khăn trên bằng vốn hiểu biết của mình tôi luôn tự học hỏi kinh nghiệm để tìm những sáng kiến hay, nhằm khắc phục khó khăn đó. Tôi đã dùng biện pháp trực tiếp phối hợp với các ban ngành đoàn thể ở địa phương, vận động các nhà hảo tâm trên địa phương, vận động phụ huynh học sinh ủng hộ cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc giảng dạy và học tập cho môn học tốt hơn.
2. Cơ sở thực tiễn
 Trường mầm non nằm trên địa bàn một huyện miền núi, đa số dân cư ở đây là trình độ dân trí không đồng đều, cha mẹ các cháu phần nhiều phải lo lắng kiếm sống, trình độ có hạn hoặc một số gia đình khá giả có trình độ học vấn còn ít. Từ những đặc điểm tình hình trên tôi nhận thấy thực trạng của vấn đề này như sau:
2.1. Thuận lợi:
 Được sự chỉ đạo sát sao của phòng giáo dục và đào tạo huyện cũng như sự quan tâm giúp đỡ của các cấp các ngành, trường mầm non ngày càng phát triển về số lượng cũng như chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ.
	 Ban giám hiệu thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn và các đợt học chuyên đề, tổ chức các cuộc hội thảo, thao giảng, dạy mẫu cho chị em đồng nghiệp học tập và rút kinh nghiệm.
 Toàn trường thực hiện nghiêm túc thì khóa biểu, dạy đúng, dạy đủ chương trình và tuyệt đối không cắt xén, không dạy trẻ trước chương trình.
 Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên có trình độ chuyên môn, tâm huyết với nghề, nhiệt tình, năng động trong mọi công việc. Thực hiện tốt chương trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ của bộ giáo dục và đào tạo đề ra.
 Giáo viên đã ứng dụng được công nghệ thông tin, đưa vào bài dạy thường xuyên, giúp trẻ được tiếp cận dần với công nghệ và phát huy khả năng của trẻ
 Được hội cha học sinh nhiệt tình ủng hộ, phối kết hợp với nhà trường trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
 Bản thân là một giáo viên có trình độ trên chuẩn về chuyên môn, nhiệt tình yêu nghề. Luôn gương mẫu trong cách giao tiếp, ứng xử hàng ngày đối với trẻ và được phụ huynh tin tưởng. Không ngừng học hỏi trau dồi chuyên môn nghiệp vụ để phục vụ tốt cho việc dạy học.
	Lớp học luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các bậc cha mẹ học sinh trong việc phối kết hợp với nhà trường để giáo dục trẻ đạt hiệu quả cao hơn.
 	2.2. Khó khăn:
Trình độ nhận thức của một số bậc cha mẹ còn thấp. Phụ huynh đa số là những gia đình làm nông nên không có nhiều thời gian quan tâm đến đời sống tình cảm, tâm lý của trẻ và nhận thức trong việc nuôi dạy con khoa học còn hạn chế.
 Điều kiện kinh tế của địa phương còn nhiều khó khăn.
 Đồ dùng đồ chơi cho trẻ còn ít.
 Bản thân giáo viên cũng chưa được đi dự giờ thường xuyên để học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm.
 Một số giáo viên khả năng cảm nhận các tác phẩm văn học còn hạn chế giọng đọc và cách phối hợp ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ, minh họa chưa bộc lộ cảm xúc hấp dẫn cuốn hút trẻ, phương pháp lồng ghép tích hợp chưa linh hoạt sáng tạo kết quả trên trẻ chưa cao, trẻ chưa thực sự say mê, hào hứng, sử dụng đồ dùng dạy học chưa có khoa học, dẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý hiệu quả trên tiết học chưa cao.
2.3. Khảo sát khả năng cảm thụ văn học của trẻ trên tiết học
 Ngay từ đầu năm học, tôi đặc biệt quan tâm đến đặc điểm tâm sinh lý của trẻ cũng như khả năng chú ý, tiếp thu bài của trẻ trên tiết học trong hoạt động làm quen với tác phẩm văn học. Qua quá trình giảng dạy giáo viên tìm hiểu và khảo sát khả năng cảm thụ văn học của trẻ thông qua việc kể cho trẻ nghe một câu truyện, hoặc đọc cho trẻ nghe một bài thơ ngắn. Sau đó cho từng trẻ nói lại nội dung câu chuyện, bài thơ hoặc cho trẻ đọc lại bài thơ hay kể lại câu chuyện. Kết quả đạt như sau:
Tổng số trẻ khảo sát
Số trẻ đọc thuộc thơ, kể lại chuyện
Số trẻ đọc thơ, kể chuyện diên cảm
Số trẻ nhớ một phần nội dung câu chuyện, bài thơ
Số trẻ nhớ và nói được nội dung câu chuyện, bài thơ
Số trẻ
Tỷ lệ
Số trẻ
Tỷ lệ
Số trẻ
Tỷ lệ
Số trẻ
Tỷ lệ
41
30
73,1%
25
60,9%
30
73,1
15
36,6%
Qua kết quả trên chúng ta thấy đầu năm học mức độ cảm thụ văn học của trẻ 5 - 6 tuổi còn thấp, trẻ đọc thuộc thơ, kể lại chuyện còn ít, đặc biệt số trẻ hiểu được nội dung bài thơ, câu chuyện còn hạn chế. Từ đó tôi nghĩ rằng giáo viên phải thường xuyên cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học ở mọi lúc mọi nơi. Việc làm này cũng góp phần giúp trẻ đến gần với văn học hơn và có thể nâng cao khả năng cảm thụ văn học của trẻ.
3. Các biện pháp nâng cao khả năng cảm thụ văn học cho trẻ 5 – 6 tuổi 
Muốn trẻ kể lại được các tác phẩm văn học thì trẻ phải được nghe, đọc, kể về tác phẩm ấy. Người đọc, kể phải truyền đạt được những suy nghĩ, tình cảm của tác giả thông qua các tác phẩm giúp trẻ có thể hình dung ra những điều trẻ được nghe làm cho bức tranh và những hình ảnh tưởng tượng nổi lên chân thật, sinh động, đập vào mắt gợi lên những xúc cảm, tình cảm nhất định. Người đọc, kể phải sử dụng mọi sắc thái của mình và sử dụng các phương tiện đọc, kể, biểu cảm khác nhau, làm cho tác phẩm cất lên tiếng nói tạo ra một bức tranh tương ứng.
	Muốn đọc, kể diễn cảm các tác phẩm văn học giáo viên cần phải rèn luyện nhiều để kể được truyện. Lời kể của cô phải có sự cuốn hút, đồng thời cô phải khéo léo vận dụng các bước sao cho linh hoạt nhẹ nhàng, thoải mái mới thu hút được đối tượng nghe.
	Từ những vận dụng trên tôi đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tôi đã áp dụng thực nghiệm thực tế trên lớp học của mình đã có hiệu quả và đạt chất lượng cao.
3.1. Nghiên cứu kỹ tác phẩm.
 	Để tiết học đạt kết quả cao thì trước hết giáo viên phải xác định rõ mục đích - yêu cầu của tác phẩm và phải thuộc tác phẩm. Từ đó đưa ra nội dung giáo dục phù hợp với cốt truyện, phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Bên cạnh đó giáo viên phải chú ý đến giọng kể của mình, kể diễn cảm, đúng ngữ điệu của từng nhân vật trong truyện, thể hiện nét mặt cử chỉ, tư thế phù hợp với diễn biến của câu truyện thì mới thu hút sự chú ý của trẻ. Giọng đọc, giọng kể của cô nhịp nhàng, đúng nhịp điệu sẽ giúp trẻ hiểu sâu sắc hơn về nội dung bài thơ, câu truyện và khả năng cảm thụ văn học của trẻ cũng được nâng cao.
 	Bộ môn “ Làm quen với văn học” là bộ môn nghệ thuật, nghệ thuật ngôn từ nên đòi hỏi giáo viên phải luyện dạy học, dạy kể diễn cảm, hấp dẫn, ngữ điệu dùng cho các nhân vật phải thể hiện được tính cách nhân vật, nghệ thuật lên lớp phải hay, truyền cảm, linh hoạt, sáng tạo, linh hoạt. Sử dụng đồ dung trực quan khớp với lời kể. Vì vậy khi tôi dạy một tiết mẫu về văn học, tôi luôn tự tin và tin rằng mình cũng đã phần nào góp phần nâng cao khả năng cảm thụ tác phẩm văn học của trẻ qua giọng đọc, giọng kể của mình.
3.2. Đổi mới hình thức tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
a. Sử dụng mô hình rối:
Để hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, dù là thơ hay truyện. Muốn đạt kết quả cao thì việc đầu tiên giáo viên phải chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học, đồ dùng đẹp hấp dẫn sẽ thu hút sự chú ý của trẻ. Trước đây giáo viên thường sử dụng tranh minh hoạ làm đồ dùng chính trong hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Song với hình thức đổi mới hiện nay, việc sử dụng tranh minh hoạ vào tiết học ít gây sự chú ý, tò mò của trẻ. Vì vậy giáo viên đã sử dụng mô hình rối để tiết dạy thêm phong phú đa dạng hơn. 
* Đơn giản là rối dẹt: 
Với câu truyện “Tích Chu” thì tôi đã vẽ hình các nhân vật trong truyện lên bìa giấy cứng hay trên gỗ mỏng có gắn đế. Khi sử dụng tôi buộc một sợi dây vào đế con rối rồi di chuyển sợi dây theo lời kể của câu truyện. Với bài thơ “Chiếc cầu mới” bằng động tác kéo dây ở đế các nhân vật rối hình sẽ di chuyển theo từng nhịp điệu của bài thơ điều này gây được sự chú ý của trẻ. 
VD: Làm rối bằng chai, lọ, vỏ xốp làm đầu bọc vải gắn len làm tóc, vẽ mắt mũi mồm sau đó cắt vải cuốn quanh làm áo, váy cho nhân vật.
 (Từ quả cầu lông không sử dụng nữa, tôi có thể tận dụng làm rối để sử dụng cho tiết dạy của mình thêm sinh động)
Làm rối que: Vẽ hình nhân vật vào giấy rồi tô màu, cắt dán vào bìa cứng để cô và trẻ dễ sử dụng, sau đó gắn que vào phía sau hoặc phía dưới mỗi hình con rối
 (Từ những qu

File đính kèm:

  • docxSang_kien_kinh_nghiem.docx
Giáo Án Liên Quan