SKKN Biện pháp hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 25-36 tháng trong Trường mầm non Đông Quý

Năm học 2024- 2025 Tôi được BGH trường mầm non Đông Quý phân công phụ trách nhóm nhà trẻ 25 – 36 tháng (nhóm NTA1) – Tổ trưởng tổ nhà trẻ. Trong tổ gồm 2 nhóm: 1 nhóm 18- 24 tháng, 2 nhóm 25 -36 tháng. Nhóm tôi phụ trách gồm 2 cô giáo và 20 cháu, đa số là các con mới bắt đầu đi học.

Với nhiều năm trong nghề tôi nhận thấy rằng điều cốt lõi đầu tiên khi vào đầu năm học giáo viên phải nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ nói chung và một số biểu hiện khác biệt của trẻ nói riêng. Với độ tuổi 25 -36 tháng đa số giáo viên sẽ làm hộ trẻ tất cả mọi việc nên khi tổ chức các hoạt động chưa được hiệu quả, cô giáo vất vả, trẻ thụ động không hợp tác.

docx11 trang | Chia sẻ: bachha2 | Ngày: 15/04/2025 | Lượt xem: 23 | Lượt tải: 0Download
Bạn đang xem nội dung tài liệu SKKN Biện pháp hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 25-36 tháng trong Trường mầm non Đông Quý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 BÁO CÁO
 Biện pháp góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ
I.THÔNGTINCHUNG
1.Tên biện pháp: Biện pháp hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 25 – 36 tháng trong 
trường mầm non.
2.Tác giả: Phạm Thị Hường
Ngày, tháng , năm sinh:15/02/2980 Nam/Nữ: Nữ
Trình độ chuyên môn: Đại Học
Chức vụ, đơn vị công tác: Tổ trưởng tổ nhà trẻ - GVCN nhóm 25-36 tháng Trường mầm 
non Đông Quý
3.Thời gian áp dụng biện pháp: 9/2024
II. NỘI DUNG BÁO CÁO
1.Tình trạng thực tiễn: 
 Năm học 2024- 2025 Tôi được BGH trường mầm non Đông Quý phân công phụ trách 
nhóm nhà trẻ 25 – 36 tháng ( nhóm NTA1) – Tổ trưởng tổ nhà trẻ. Trong tổ gồm 2 nhóm: 
1 nhóm 18- 24 tháng, 2 nhóm 25 -36 tháng. Nhóm tôi phụ trách gồm 2 cô giáo và 20 
cháu, đa số là các con mới bắt đầu đi học. Với nhiều năm trong nghề tôi nhận thấy rằng 
điều cốt lõi đầu tiên khi vào đầu năm học giáo viên phải nắm bắt được đặc điểm tâm sinh 
lý của trẻ nói chung và một số biểu hiện khác biệt của trẻ nói riêng. Với độ tuổi 25 -36 
tháng đa số giáo viên sẽ làm hộ trẻ tất cả mọi việc nên khi tổ chức các hoạt động chưa 
được hiệu quả, cô giáo vất vả, trẻ thụ động không hợp tác. Thực tế qua công tác giảng 
dạy, tôi thấy thực trạng kỹ năng tự phục vụ trẻ lớp tôi phụ trách như sau:
Ưu điểm:
- Trường mầm non Đông Quý là trường đạt chuẩn Quốc gia mực độ I, trẻ được học đúng 
độ tuổi, lớp đảm bảo theo quy định điều lệ trường mầm non, có tương đối đầy đủ trang 
thiết bị phục vụ các hoạt động chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng trẻ. 
- Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các buổi 
chuyên đề, khuyến khích sự tìm tòi sáng tạo của giáo viên tạo điều kiện về cơ sở vật chất 
và phương tiện thực hiện các hoạt động của trẻ. Được sự giúp đỡ tận tình của đồng 
nghiệp trong tổ chức hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
- Giáo viên có trình độ chuẩn và trên chuẩn.
Hạn chế : - Trẻ quá nhỏ thường chưa có khả năng tập trung lâu, dễ bị phân tâm bởi những yếu tố 
xung quanh, trẻ có thể nhanh chóng chán nản hoặc mất hứng thú .
- Sự can thiệp quá mức từ phụ huynh và giáo viên: Nhiều phụ huynh và giáo viên ở lớp 
tôi thường giúp trẻ quá mức, khiến trẻ thiếu cơ hội tự trải nghiệm và thực hành. Điều này 
làm trẻ bị lệ thuộc vào người lớn và không phát triển được tính tự lập.
- Khả năng vận động tinh chưa hoàn thiện: Các kỹ năng vận động tinh như cầm nắm, điều 
khiển muỗng, nĩa, hay cài nút áo còn yếu. Điều này ảnh hưởng đến khả năng thực hiện 
các hoạt động tự phục vụ của trẻ, đòi hỏi sự kiên nhẫn từ phía giáo viên để giúp trẻ rèn 
luyện.
- Sự không đồng đều trong khả năng giữa các trẻ: Mỗi trẻ phát triển ở một tốc độ khác 
nhau, có trẻ nhanh nhẹn, có trẻ cần nhiều thời gian hơn để hoàn thành các kỹ năng tự 
phục vụ. 
- Thể lực của trẻ còn yếu hay bị ốm phải nghỉ học và nhiều trẻ chưa hiểu lời nói của cô, 
vốn từ của trẻ còn ít. 
 Nhận thức được tầm quan trọng nên tôi đã mạnh dạn lựa chọn “Biện pháp hình thành 
kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 25 - 36 tháng ở trường mầm non ” vào thực hiện tại 2 nhóm 
25 -36 tháng của trường do tôi phụ trách, với mục đích tìm ra những phương pháp, hình 
thức mới và tổ chức để áp dụng trong việc hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thiết 
thực, phù hợp với khả năng, nhận thức của trẻ giúp trẻ phát triển một cách toàn diện nhất.
 Để thực hiện tốt những kế hoạch đề ra cho biện pháp, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến 
hành khảo sát đánh giá khả năng tự phục vụ của trẻ với số liệu cụ thể như sau:
Kết quả khảo sát trước khi thực hiện biện pháp
 Kết quả
 STT Nội dung khảo sát Số trẻ Đạt Tỷ lệ % Chưa Tỷ lệ %
 đạt
 1 Thói quen vệ sinh (nói với 20 6 30% 14 70%
 người lớn khi có nhu cầu đi 
 vệ sinh, biết tự đi vệ sinh 
 đúng nơi quy định )
 2 Thói quen trong ăn uống ( 20 5 25% 15 75%
 Tự xúc ăn, tự lấy nước 
 uống )
 3 Tự cất, đồ dùng cá nhân ( 20 6 30% 14 70% dép, ba lô, gối ) đúng nơi 
 quy định 
 4 Các kỹ năng khác: Tự mạc 20 3 15% 17 85%
 quần áo, tự cởi quần áo khi 
 bị ướt, bị bẩn, kỹ năng đi 
 dép
2. Biện pháp
2.1. Mục đích
- Hướng đến việc giúp trẻ dần tự tin và tự lập trong việc thực hiện các hoạt động phục vụ 
bản thân như tự ăn, tự vệ sinh cá nhân, tự mặc quần áo. 
- Trẻ phát triển kỹ năng vận động tinh và thô, từ đó nâng cao khả năng phối hợp tay - mắt 
và sức khỏe thể chất. 
- Trẻ có cơ hội giao tiếp với bạn bè và người lớn xung quanh, học cách làm việc nhóm, 
chờ đợi lượt mình, giúp đỡ bạn bè, từ đó phát triển kỹ năng xã hội. 
- Giáo viên linh hoạt, sáng tạo trong việc nghiên cứu tìm tòi biện pháp tổ chức hiện các 
hoạt động trong ngày.
2.2. Các Biện pháp
Biện pháp 1: Tổ chức hoạt động học qua chơi
Tôi tạo các hoạt động vui chơi trong lớp để trẻ học cách tự phục vụ, ví dụ: như xếp hàng 
rửa tay, dọn dẹp đồ chơi.
Với Trò chơi "Xếp hàng rửa tay":
Chuẩn bị: Tôi đặt một điểm bắt đầu và điểm đích gần bồn rửa. Sử dụng sticker hoặc dấu 
chân dán trên sàn để hướng dẫn trẻ cách xếp hàng.
Cách chơi: Trẻ xếp hàng lần lượt, mỗi trẻ đứng trên một dấu chân và di chuyển lên khi 
đến lượt. Tôi sử dụng nhạc nhẹ để tạo không khí vui vẻ. Khi nhạc dừng, trẻ biết rằng 
mình đến lượt rửa tay.
Lợi ích:Với trog chơi này trẻ sẽ học cách chờ đợi và giữ trật tự, đồng thời phát triển thói 
quen vệ sinh.
 Với Trò chơi "Phân loại đồ chơi"
Chuẩn bị: Tôi đặt các rổ hoặc hộp màu sắc khác nhau và dán hình ảnh các loại đồ chơi 
lên mỗi rổ (ví dụ: rổ đỏ cho lego, rổ xanh cho xe hơi, rổ vàng cho thú nhồi bông).
Cách chơi: Sau khi chơi xong, mỗi trẻ sẽ tự thu dọn đồ chơi và đặt vào rổ tương ứng với 
màu sắc hoặc hình ảnh. Tôi linh hoạt cho nó thành trò chơi thi đua nhỏ, xem ai thu dọn 
nhanh và đúng loại.
Lợi ích: Ở trò chơi này trẻ sẽ học cách giữ gìn trật tự, phân loại đồ vật và có ý thức tự dọn 
dẹp sau khi chơi. Với Trò chơi "Sắp xếp bàn ghế":
Chuẩn bị: Tôi đặt bàn ghế lộn xộn trước khi bắt đầu trò chơi. Đánh dấu các vị trí trên sàn 
nơi bàn ghế cần đặt đúng chỗ.
Cách chơi: Sau đó tôi chia trẻ thành từng nhóm và giao cho mỗi nhóm nhiệm vụ xếp bàn 
ghế theo vị trí đã đánh dấu. Khi hoàn thành, tôi cùng các trẻ kiểm tra lại.
Lợi ích:Với trò chơi này trẻ sẽ học kỹ năng sắp xếp và làm việc nhóm, biết tôn trọng 
không gian lớp học. Biện pháp 2: Xây dựng thói quen qua hoạt động hàng ngày
 Đối với trẻ từ 25-36 tháng, các hoạt động hàng ngày đóng vai trò quan trọng trong việc 
xây dựng thói quen và kỹ năng tự phục vụ. Tôi lên kế hoạch thiết kế các hoạt động 
thường xuyên như ăn uống, rửa tay, đi vệ sinh và thay quần áo để trẻ thực hành hàng 
ngày.
 Dưới đây là một số các hoạt động hàng ngày tôi thường xuyên tổ chức giúp trẻ thực 
hành.
Hoạt động ăn uống tự lập:
Tôi đã thiết lập thời gian cố định cho bữa ăn, giúp trẻ hình thành thói quen ăn đúng giờ. 
Dạy trẻ cách ngồi đúng vị trí, sử dụng thìa, bát và nhờ trẻ thử tự lấy thức ăn (với các món 
dễ ăn). Tôi luôn động viên khen ngợi khi trẻ tự lập trong việc ăn uống
Hoạt động rửa tay:
Tôi đã tạo trò chơi “rửa tay” sau mỗi hoạt động như chơi xong, trước khi ăn hoặc sau khi 
đi vệ sinh. Hướng dẫn các bước rửa tay bằng bài hát ngắn và nhắc nhở về tầm quan trọng 
của việc giữ sạch sẽ. Hoạt động đi vệ sinh:
Tôi đã thiết lập góc vệ sinh phù hợp, có những hình ảnh minh họa dễ hiểu giúp trẻ thực 
hành theo. Tôi xây dựng thời gian được lặp di lặp lại hàng ngày để nhắc nhở trẻ đi vệ 
sinh thường xuyên, như trước giờ ăn và giờ ngủ.
Khuyến khích trẻ thử tự mình làm, từ việc kéo quần xuống và lên cho đến rửa tay sau khi 
xong.
Hoạt động thay quần áo:
Tôi tạo một góc để quần áo và các vật dụng cá nhân của trẻ, giúp trẻ nhận biết đồ dùng 
của mình và thử tự lấy khi cần.
Tôi hướng dẫn trẻ một cách tỉ mỉ, bài bản về cách cởi áo hoặc mang giày, đi dép Khi trẻ 
đã quen tôi thường xuyên khuyến khích trẻ thử tự mặc và khen ngợi khi trẻ thực hiện 
được, động viên cổ vũ những trẻ còn chậm.
Những hoạt động này tôi luôn duy trì đều đặn và kết hợp với sự động viên để giúp trẻ 
hình thành thói quen tự phục vụ và tự lập trong sinh hoạt hàng ngày. Biện pháp 3: Dạy bằng cách làm mẫu và hướng dẫn
 Với trẻ từ 25-36 tháng, việc dạy các kỹ năng cơ bản bằng cách làm mẫu và hướng dẫn 
sẽ giúp trẻ dễ dàng nắm bắt và thực hành. Để thực hiện hiệu quả, tôi đã làm theo các 
bước sau:
Bước 1: Làm mẫu từng bước: Tôi thực hiện mẫu từng bước của kỹ năng muốn dạy, ví dụ 
như: rửa tay, tự mặc áo, hoặc dọn dẹp đồ chơi. Trong khi làm, tôi mô tả các bước một 
cách đơn giản và rõ ràng, giúp trẻ quan sát kỹ.
Bước 2: Khuyến khích trẻ tự làm: Sau khi làm mẫu, Tôi mời trẻ thử tự làm lại. Trẻ ở độ 
tuổi này thường thích bắt chước và khám phá, nên việc này sẽ kích thích sự tò mò và tinh 
thần tự lập của trẻ.
Bước 3: Quan sát và hỗ trợ: Khi trẻ tự làm, tôi quan sát và giúp đỡ khi cần, không can 
thiệp quá nhiều. Nếu trẻ gặp khó khăn, Tôi gợi ý hoặc lặp lại một số bước mẫu mà không 
làm thay trẻ.
Bước 4: Khen ngợi và động viên: Mỗi khi trẻ hoàn thành được một bước, dù nhỏ, tôi luôn 
khen ngợi và động viên, giúp trẻ cảm thấy tự tin và hào hứng thử lại những lần sau.
Bước 5: Thực hành thường xuyên: Đưa các kỹ năng này vào các hoạt động hàng ngày 
như ăn, rửa tay, và tự sắp xếp đồ dùng cá nhân, để trẻ có cơ hội luyện tập thường xuyên.
Bằng cách này, trẻ sẽ dần dần tự tin hơn và có thể tự thực hiện các kỹ năng cơ bản trong 
sinh hoạt hàng ngày. Biện pháp 4: Phối hợp với gia đình
 Để phối hợp với gia đình trong việc giúp trẻ 25-36 tháng rèn luyện kỹ năng tự phục 
vụ, tôi đã thực hiện các hoạt động sau đây:
Tổ chức buổi họp phụ huynh:
Mục tiêu: Giới thiệu về tầm quan trọng của kỹ năng tự phục vụ và cách hỗ trợ trẻ ở nhà.
Nội dung: Chia sẻ thông tin về các hoạt động tự phục vụ mà trẻ đang học tại trường, và 
hướng dẫn phụ huynh cách thực hiện những hoạt động tương tự ở nhà.
Gửi tài liệu hướng dẫn:
Cung cấp cho phụ huynh các tài liệu như bảng hướng dẫn hoặc video ngắn về cách giúp 
trẻ rèn luyện các kỹ năng như:
 • Rửa tay đúng cách
 • Tự ăn uống
 • Dọn dẹp đồ chơi
 • Thay đồ
Chia sẻ hình ảnh và video:
Tôi Gửi hình ảnh, video về những hoạt động tự phục vụ tại lớp học để phụ huynh thấy 
được cách thức trẻ học tập và có thể áp dụng ở nhà.
Tổ chức hoạt động gia đình:
Tôi tổ chức cho phụ huynh tham gia vào các hoạt động tại nhóm lớp, như ngày hội tự 
phục vụ, nơi trẻ có thể thực hành kỹ năng với sự hỗ trợ của bố mẹ.
Gửi nhắc nhở và lời khuyên qua zalo tin nhắn:
Trên nhóm zalo của lớp tôi thể thường xuyên nhắc nhở và chia sẻ các mẹo hữu ích cho 
phụ huynh.
Bằng các hình thức trên tôi nhận thấy không chỉ giúp trẻ phát triển kỹ năng tự phục vụ 
mà còn tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình, từ đó hỗ trợ quá trình học tập 
của trẻ một cách toàn diện.
3. Kết quả
* Lợi ích về công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ
- Trẻ học cách tự phục vụ thông qua các hoạt động như tự rửa tay, xếp hàng, và dọn đồ 
chơi, từ đó trở nên tự lập và tự tin hơn. - Những hoạt động tự phục vụ như mặc quần áo, mang giày giúp trẻ rèn luyện kỹ năng 
vận động tinh và thô, đồng thời phát triển khả năng phối hợp tay-mắt.
- Hình thành thói quen tự phục vụ giúp trẻ phát triển tính kỷ luật, tính ngăn nắp và trật tự 
từ khi còn nhỏ. 
*Lợi ích về kinh tế
- Tiết kiệm thời gian và nguồn lực của giáo viên: Khi trẻ dần tự lập và có thể thực hiện 
những việc cá nhân, giáo viên không cần dành quá nhiều thời gian cho những hoạt động 
này, giúp giảm khối lượng công việc 
- Các chương trình giáo dục có thể tập trung nhiều hơn vào các kỹ năng phát triển tư duy 
và sáng tạo, thay vì dành thời gian vào các công việc chăm sóc.
*Lợi ích về xã hội
- Khi trẻ có khả năng tự phục vụ, các phụ huynh cũng nhận thức được tầm quan trọng của 
việc rèn luyện kỹ năng này, từ đó có thể lan tỏa và nâng cao nhận thức trong cộng đồng.
*Lợi ích về môi trường
- Giảm thiểu lượng rác thải và sử dụng tài nguyên: Khi trẻ được giáo dục về ý thức tự 
phục vụ, trẻ có xu hướng quan tâm đến việc sử dụng tài nguyên hiệu quả (như dùng nước 
vừa đủ khi rửa tay), giúp giảm thiểu lãng phí.
Bảng khảo sát đến hết ngày 30/11/2024.
 Kết quả
STT Nội dung khảo sát Số trẻ Đạt Tỷ lệ Chưa đạt Tỷ lệ %
 %
1 Thói quen vệ sinh (nói với 20 10 50% 10 50%
 người lớn khi có nhu cầu đi vệ 
 sinh, biết tự đi vệ sinh đúng 
 nơi quy định )
2 Thói quen trong ăn uống ( Tự 20 12 60% 40%
 xúc ăn, tự lấy nước uống )
3 Tự cất, đồ dùng cá nhân ( dép, 20 15 75% 5 25%
 ba lô, gối ) đúng nơi quy 
 định.

File đính kèm:

  • docxskkn_bien_phap_hinh_thanh_ky_nang_tu_phuc_vu_cho_tre_25_36_t.docx
Giáo Án Liên Quan