SKKN Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và chế độ dinh dưỡng cho trẻ trong trường mầm non

“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”, trẻ em là tương lai của đất nước, là niềm vui hạnh phúc và hi vọng của mỗi gia đình và toàn xã hội. Trẻ em hôm nay có khỏe mạnh, phát triển cân dối, hài hòa về thể lực, trí tuệ thì sẽ tạo cho xã hội mai sau một lớp công dân đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập.

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, đặt vấn đề chăm sóc, giáo dục trẻ lên hàng đầu. Đặc biệt những năm gần đây cấp học mầm non đã được Đảng, chính quyền các cấp, các ngành quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi để trẻ em có thể phát triển tốt nhất.

Chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ở lứa tuổi mầm non là mục tiêu và nhiệm vụ của nhà trường, nó được toàn xã hội quan tâm,đặc biệt là những người trực tiếp làm công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Việc nuôi và dạy trẻ ở trường mầm non là hai vấn đề song song. Nếu chỉ dạy tốt mà nuôi dưỡng không tốt thì chưa đảm bảo trẻ phát triển cân đối, toàn diện, hình thành và phát triển tốt năm mặt: Đức - trí- thể - mĩ - lao động. Đây chính là những viên gạch hồng đặt nền tảng vững chắc cho những bậc học tiếp theo.

Trẻ em trong những năm đầu, cơ thể trẻ còn rất non nớt, trẻ tăng trưởng và phát triển được hoàn toàn phụ thuộc vào sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng của người lớn. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ đòi hỏi chúng ta phải có kiến thức dinh dưỡng, vệ sinh. Đặc biệt vấn đề chúng ta phải quan tâm hơn cả đó là vấn đề: “Vệ sinh an toàn thực phẩm và đảm bảo chế độ dinh dưỡng cho trẻ”.

Hiện nay, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang là mối quan tâm lớn của toàn xã hội. Đồng thời nó cũng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chế độ dinh dưỡng cho trẻ. Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm liên quan từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng nên công tác này đòi hỏi tính liên ngành cao và là công việc của toàn dân và toàn xã hội. Do tính chất đặc thù của trường mầm non nên bếp ăn của trường mầm non cần phải chú ý đặc biệt toàn bộ các khâu trong suốt quá trình từ lựa chọn thực phẩm tới sơ chế, chế biến đến khâu sử dụng và bảo quản thực phẩm. Có như vậy công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm mới đạt được hiệu quả cao.

Vì vậy vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí rất quan trọng đối với sức khỏe của mọi người, góp phần nâng cao sức lao động, phòng chống bệnh tật và đem lại hạnh phúc cho mọi người, cho mỗi gia đình và toàn xã hội. Và trong đề tài này, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩn được xem như là một điều kiện rất cần thiết, góp phần đảm bảo chế độ dinh dưỡng trong bữa ăn của trẻ.

Là một cô nuôi trong trường mầm non, hàng ngày trực tiếp nấu ăn cho trẻ tôi thấy mình cần phải có kiến thức về dinh dưỡng, vệ sinh ăn uống, vệ sinh an toàn thực phẩm, cách chế biến các món ăn hợp khẩu vị của trẻ. Đặc biệt là công tác vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được tôi quan tâm và thực hiện một cách rất nghiêm túc. Hơn nữa là một nhân viên nuôi dưỡng, bản thân tôi thật sự băn khoăn, trăn trở trước thực tế thị trường nhạy cảm hiện nay và làm thế nào để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ tại trường mầm non. Do vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và chế độ dinh dưỡng cho trẻ trong trường mầm non”

 

doc26 trang | Chia sẻ: thienanh95 | Lượt xem: 3431 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu SKKN Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và chế độ dinh dưỡng cho trẻ trong trường mầm non, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM
TRƯỜNG MẦM NON QUANG TRUNG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: 
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO VỆ SINH 
AN TOÀN THỰC PHẨM VÀ CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG 
CHO TRẺ TRONG TRƯỜNG MẦM NON”
Tác giả	: Nguyễn Thị Thanh Thúy
 Lĩnh vực	: Chăm sóc nuôi dưỡng
 Cấp học	: Mầm non
NĂM HỌC: 2018 - 2019
MỤC LỤC
I: ĐẶT VẤN ĐỀ
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”, trẻ em là tương lai của đất nước, là niềm vui hạnh phúc và hi vọng của mỗi gia đình và toàn xã hội. Trẻ em hôm nay có khỏe mạnh, phát triển cân dối, hài hòa về thể lực, trí tuệ thì sẽ tạo cho xã hội mai sau một lớp công dân đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, đặt vấn đề chăm sóc, giáo dục trẻ lên hàng đầu. Đặc biệt những năm gần đây cấp học mầm non đã được Đảng, chính quyền các cấp, các ngành quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi để trẻ em có thể phát triển tốt nhất.
Chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ở lứa tuổi mầm non là mục tiêu và nhiệm vụ của nhà trường, nó được toàn xã hội quan tâm,đặc biệt là những người trực tiếp làm công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Việc nuôi và dạy trẻ ở trường mầm non là hai vấn đề song song. Nếu chỉ dạy tốt mà nuôi dưỡng không tốt thì chưa đảm bảo trẻ phát triển cân đối, toàn diện, hình thành và phát triển tốt năm mặt: Đức - trí- thể - mĩ - lao động. Đây chính là những viên gạch hồng đặt nền tảng vững chắc cho những bậc học tiếp theo.
Trẻ em trong những năm đầu, cơ thể trẻ còn rất non nớt, trẻ tăng trưởng và phát triển được hoàn toàn phụ thuộc vào sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng của người lớn. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ đòi hỏi chúng ta phải có kiến thức dinh dưỡng, vệ sinh. Đặc biệt vấn đề chúng ta phải quan tâm hơn cả đó là vấn đề: “Vệ sinh an toàn thực phẩm và đảm bảo chế độ dinh dưỡng cho trẻ”.
Hiện nay, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang là mối quan tâm lớn của toàn xã hội. Đồng thời nó cũng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chế độ dinh dưỡng cho trẻ. Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm liên quan từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng nên công tác này đòi hỏi tính liên ngành cao và là công việc của toàn dân và toàn xã hội. Do tính chất đặc thù của trường mầm non nên bếp ăn của trường mầm non cần phải chú ý đặc biệt toàn bộ các khâu trong suốt quá trình từ lựa chọn thực phẩm tới sơ chế, chế biến đến khâu sử dụng và bảo quản thực phẩm. Có như vậy công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm mới đạt được hiệu quả cao. 
Vì vậy vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí rất quan trọng đối với sức khỏe của mọi người, góp phần nâng cao sức lao động, phòng chống bệnh tật và đem lại hạnh phúc cho mọi người, cho mỗi gia đình và toàn xã hội. Và trong đề tài này, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩn được xem như là một điều kiện rất cần thiết, góp phần đảm bảo chế độ dinh dưỡng trong bữa ăn của trẻ.
Là một cô nuôi trong trường mầm non, hàng ngày trực tiếp nấu ăn cho trẻ tôi thấy mình cần phải có kiến thức về dinh dưỡng, vệ sinh ăn uống, vệ sinh an toàn thực phẩm, cách chế biến các món ăn hợp khẩu vị của trẻ. Đặc biệt là công tác vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được tôi quan tâm và thực hiện một cách rất nghiêm túc. Hơn nữa là một nhân viên nuôi dưỡng, bản thân tôi thật sự băn khoăn, trăn trở trước thực tế thị trường nhạy cảm hiện nay và làm thế nào để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ tại trường mầm non. Do vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và chế độ dinh dưỡng cho trẻ trong trường mầm non”
II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Thực phẩm có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với con người, nếu sử dụng thực phẩm không tốt, không đảm bảo vệ sinh rất dễ xảy ra ngộ độc thực phẩm. Vì vậy, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm luôn giữ vị trí quan trọng đối với sức khỏe của mọi người dân, góp phần nâng cao sức lao động, chống lại bệnh tật, giúp con người có sức khỏe tốt, đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho mỗi gia đình và cả cộng đồng.
Theo nghiên cứu của Viện dinh dưỡng thì sự ăn uống có ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của trẻ. Trẻ được nuôi dưỡng tốt, ăn uống đầy đủ thì da hồng hào, thịt chắc nịch và cân nặng đảm bảo. Sự ăn uống không điều độ sẽ ảnh hưởng đến sự tiêu hoá của trẻ. Nếu cho trẻ ăn uống không khoa học, không có giờ giấc thì thường gây ra rối loạn tiêu hoá và trẻ có thể mắc một số bệnh như tiêu chảy, còi xương, khô mắt, .
Như vậy, vấn đề ăn uống đối với trẻ mầm non đã được sự quan tâm từ rất sớm. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ quan tâm đến ảnh hưởng của sự ăn uống đến sức khoẻ và bệnh tật của trẻ. Đồng thời các tác giả cũng cho rằng: Để có cơ thể phát triển tốt, tránh được bệnh tật thì cần phải đảm bảo một chế độ ăn uống khoa học, hợp lý, vệ sinh. Nhưng chưa có một tác giả nào đề cập đến hiệu quả tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ.
Như chúng ta đã biết trên các kênh thông tin, các tài liệu về “Vệ sinh an toàn thực phẩm và đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ trong trường mầm non” của Cục quản lý chất lượng vệ sinh ATTP thuộc Bộ Y tế năm 2000. Ngộ độc thực phẩm có thể xảy ra với bất kỳ ai, gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ con người. Ngộ độc thực phẩm có thể tránh được.
* CƠ SỞ THỰC TIỄN
Ở nước ta, qua việc nghiên cứu vấn đề tổ chức bữa ăn cho trẻ ở trường mầm non mới được quan tâm trong một vài năm gần đây. Trong công trình nghiên cứu “Khảo sát khẩu phần ăn trưa và bữa phụ” của tác giả Lê Thị Khánh Hoà (1983) có đưa ra khảo sát khẩu phần ăn trưa , năng lượng của trẻ mầm non, kết quả nghiên cứu cho thấy tình hình cung cấp năng lượng cho trẻ ở trường mầm non còn thấp so với tiêu chuẩn, tỉ lệ các chất năng lượng chưa cân đối, chưa hợp lý, trong đó lượng Gluxits quá cao, Lipit thì quá thấp. Tác giả cũng chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến tình hình trên là do bếp ăn mới được hình thành, cơ sở vật chất thiếu thốn, có nhiều quan niệm coi nhẹ việc nuôi nên hình thức tổ chức còn nghèo nàn, từ đó tác giả đưa ra các giải pháp: Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất cho các trường mầm non để đảm bảo cho việc tổ chức ăn cho trẻ, đào tạo đội ngũ cô nuôi có trình độ hiểu biết về dinh dưỡng cho trẻ,
Khi công trình nghiên cứu : “Điều tra tình trạng dinh dưỡng của trẻ mẫu giáo ở một số trường phía Bắc” Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Trâm (1989) cho thấy việc cung cấp dưỡng chất cơ bản (Gluxit, Lipit) cho trẻ mẫu giáo ở các trường mầm non của ta hiện nay còn thấp. Chúng ta mới chỉ cung cấp được khoảng 70% nhu cầu cần thiết tối thiểu năng lượng cho trẻ mẫu giáo và năng lượng đó chủ yếu là do Gluxit mang lại. Mặt khác, hai tác giả cùng nhấn mạnh việc nâng cao hơn nữa kiến thức khoa học về dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo đối với các cơ sở nuôi dạy trẻ, tránh tình trạng cho ăn theo kinh nghiệm hoặc tổ chức dinh dưỡng thiếu lí luận toàn diện, chặt chẽ, kém hiệu quả. Đồng thời, nhà trường và gia đình cần có sự hiểu biết đúng đắn về mối quan hệ giữa nuôi và dạy, giữa sức khoẻ thể chất với sức khoẻ tinh thần của trẻ mẫu giáo
Như vậy, các công trình nghiên cứu về vấn đề này không nhiều, chủ yếu là điều tra, đánh giá và tổng kết về tình hình dinh dưỡng, khẩu phần ăn cho trẻ mầm non chưa quan tâm đi sâu vào cách tổ chức bữa ăn cho trẻ. Do tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu và do yêu cầu thực tiễn nên yêu cầu “Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và chế độ dinh dưỡng cho trẻ trong trường mầm non” là thật sự cần thiết.
Trong cơ thể, vật chất bị tiêu hao và bị phân giải để cung cấp năng lượng cho hoạt động sống. Để bù vào phần vật chất đã bị tiêu hao, đồng thời để cơ thể luôn luôn đổi mới và phát triển thì cơ thể phẩi lấy chất dinh dưỡng từ bên ngoài cơ thể dưới dạng thức ăn. Thức ăn gồm các chất có cấu trúc phức tạp, gồm những phân tử quá lớn nên cơ thể không thể sử dụng ngay mà phải qua hai quá trình biến đổi : Biến đổi về lý học và biến đổi về hoá học
Có nhiều biện pháp tạo ra sự muốn ăn của cơ thể và một trong những biện pháp đó là thành lập ở trẻ những phản xạ ăn uống có điều kiện
Muốn tạo ra cảm giác muốn ăn của cơ thể thì cần phải hình thành ở trẻ những phản xạ ăn uống có điều kiện và đặc biệt cần hình thành phản xạ có điều kiện ăn uống về thời gian. Khi phản xạ này được thành lập một cách bền vững thì chỉ đến các giờ ăn quen thuộc các cơ quan tiêu hoá bắt đầu tiết dịch trước khi ăn . Khi đó ta có cảm giác muốn ăn và khi được ăn sẽ ăn ngon miệng, đồng thời thức ăn sẽ được tiêu hoá nhanh. Cảm giác muốn ăn ở trẻ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : thức ăn phải hấp dẫn trẻ, Phòng ăn phải sạch sẽ, thoáng mát, việc bày trí đồ đạc trong phòng ăn là nhân tố quan trọng tạo ra cảm giác muốn ăn của cơ thể. Khi vào một phòng ăn thoáng mát, sạch sẽ, được ngồi ăn trên bàn ghế sạch sẽ người ta sẽ có cảm giác muốn ăn, ngoài ra dụng cụ ăn uống như : bát, đũa, thìa, sạch sẽ vệ sinh cũng giúp ta ăn ngon miệng hơn.
Ngoài ra cách chế biến món ăn, mùi thơm của thức ăn sẽ kích thích dịch tiêu hoá, khi ta đói mà ngửi thấy mùi thơm của thức ăn thì ngay lúc đó cơ quan tiêu hoá sẽ tiết ra dịch, hoặc thức ăn được bày lịch sự, trang trí đẹp mắt,  sẽ tạo cảm giác muốn ăn của cơ thể. Trong bầu không khí thước và trong khi ăn có ảnh hưởng rất lớn đến cảm giác muốn ăn của cơ thể. Người ta chỉ muốn ăn và ngon miệng khi mà con người cảm thấy thoải mái, không bị ức chế bởi một lý do nào đó, do vậy trong khi ăn cần tạo bầu không khí ấm cúng, vui vẻ, yên tĩnh,nhẹ nhàng tránh những tin gây xúc động mạnh thì cảm giác ngon miệng sẽ được tăng lên.
Đối với trẻ mầm non cơ thể đang trong giai đoạn phát triển nhanh, vì vậy đòi hỏi khẩu phần ăn phải đầy đủ về số lượng và chất lượng, ăn uống rất cần thiết cho cơ thể phát triển về thể chất và tinh thần vì thế thức ăn cung cấp vật liệu cần thiết, phát triển và phục hồi sức khoẻ cho cơ thể.
Trẻ khoẻ mạnh giúp trẻ có sự cân bằng giữa tuổi, cân nặng, chiều cao. Cơ thể phát triển giúp trẻ tránh được sự nhiễm khuẩn, tránh được bệnh tật, luôn vui tươi, hiếu động. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cân nặng và chiều cao của trẻ như: khí hậu, yếu tố giống nòi, chế độ dinh dưỡng,  nhưng trong đó chất lượng của dinh dưỡng vẫn là chủ yếu. Trẻ em nếu ăn uống hợp lý thì phát triển về chiều cao. Vì vậy trẻ em chỉ phát triển được hài hoà, cân đối khi mà được ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng. Nếu trẻ ăn uống thiếu thốn hay ăn uống không điều độ thì sẽ ảnh hưởng đến sự tiêu hoá, phá hoại quá trình trao đổi chất  từ đó làm cho cơ thể trẻ yếu đi và dấn đến tình trạng suy dinh dưỡng. Theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê thì tỉ lệ suy dinh dưỡng hiện nay của Việt Nam là khá cao so với thế giới. Nguyên nhân chủ yếu là do ăn uống thiếu chất và chế độ chăm sóc chưa hợp lý. Những trẻ suy dinh dưỡng rất dễ mắc cá bệnh tiêu chảy, bệnh viêm đường hô hấp, khi mắc bệnh thì thường nặng hơn và có tỉ lệ tử vong cao. Như vậy, ăn uống có vai trò rất to lớn đối với sức khoẻ và sự phát triển thể chát của trẻ.
2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
Trường Mầm non Quang Trung là trường mầm non thuộc địa bàn Thị Trấn Trâu Qùy,tách ra từ trường mầm non Trâu Qùy, nơi đây giao thông thuận lợi, dân cư đông đúc. Cuộc sống của người dân đang tiến lên từng ngày. Trường mầm non là nơi gửi gắm hơn 300 trẻ của các gia đình nằm trên địa bàn 3 tổ dân phố. Số trẻ ăn bán trú ở trường là 100%.Tiêu chuẩn mỗi bữa ăn của trẻ hiện nay là 20.000đ/ngày,gồm một bữa ăn chính và một bữa ăn phụ. Tổng số nhân viên nấu ăn của toàn trường tôi hiện nay là 8 đồng chí, tất cả đều có sức khỏe tốt và trình độ chuyên môn đều tốt nghiệp trung cấp nấu ăn. 
Xuất phát từ những điều kiện thực tế về vệ sinh an toàn thực phẩm và đảm bảo chế độ dinh dưỡng cho trẻ, trường mầm non có những điều kiện thuận lợi và những khó khăn sau:
a. Thuận lợi
Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo đặc biệt là PGD Huyện Gia Lâm đã xây dựng những văn bản chỉ đạo quy chế chuyên môn tổ chức tập huấn đầu đủ cho 100% các nhân viên nuôi dưỡng, học tập và nâng cao trình độ chuyên môn. Được sự quan tâm đặc biệt của Ban giám hiệu Trường MN. Ban giám hiệu xây dựng kế hoạch cụ thể, chỉ đạo sát sao tổ nuôi từng việc xây dựng thực đơn theo tuần. theo mùa, để khâu giao nhận thực phẩm sơ chế, chế biến thực phẩm để nấu chín và chia ăn.
Nhà trường thường xuyên tạo điều kiện cho tôi được thăm quan học hổi kinh nghiệm của trường bạn, tham gia dự các đợt tập huấn kiến thức về VSATTP các lớp nữ công gia chánh do PGD tổ chức. Đội ngũ nhân viên 100% có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn khỏe mạnh 
Bếp được xắp xếp qui trình môt chiều.Bản thân tôi là một người cô nuôi luôn luôn yêu nghề,gắn bó với nghề và không ngừng phát huy những kiến thức mà mình đã được học tập rèn luyện ,bản thân trau dồi kiến thúc để nghiêm túc thực hiện quy trình chế biến món ăn cho trẻ đảm bảo bữa ăn của trẻ đủ chất đủ lượng.
b.Khó khăn:
Tuy đã có hợp đồng tin cậy với các công ty uy tín có tính pháp lý nhưng vì dịch bệnh tràn lan nên việc lựa chọ thực phẩm sạch ,an toàn còn gặp nhiều khó khăn.
Thời tiết thất thường ảnh hưởng nhiều đến nhu cầu dinh dưỡng của trẻ.
Còn một số phụ huynh còn chưa hiểu biết về nhu cầu dinh dưỡng của trẻ nên cho trẻ ăn không cân đối.
 	Trước những thuận lợi và khó khăn trên, tôi đã suy nghĩ và tìm ra: “Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và chế độ dinh dưỡng cho trẻ” trong trường mầm non 
3.CÁC BIỆN PHÁP
3.1.Biện pháp 1:Làm tốt công tác tuyên truyềnđối với các đoàn thể trong trường và phụ huynh
Đầu năm học, sau khi được sự thông qua của Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường đã tổ chức cho tổ nuôi phối hợp với giáo viên chủ nhiệm các lớp họp và tuyên truyền cho các bậc phụ huynh về cách chăm sóc con theo khoa học, thông báo sức khoẻ của từng trẻ cho phụ huynh nắm được để từ đó phối kết hợp với giáo viên chủ nhiệm chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tốt hơn, đặc biệt là những trẻ suy dinh dưỡng và thấp còi. Muốn cho các bậc phụ huynh tham gia một cách tích cực vào công tác phòng chống suy dinh dinh dưỡng. Trước hết, cần để phụ huynh thấy được giá trị dinh dưỡng của từng loại thực phẩm và cân đối giữa các thực phẩm đó, cũng như để phụ huynh biết được việc ăn bán trú của trẻ tại trường là rất quan trọng để từ đó phụ huynh hiểu rõ về việc ăn bán trú tại trường.
3.2.Biện pháp 2: Lựa chọn thực phẩm sạch 
 - Muốn có bữa ăn ngon, món ngon thì việc lựa chọn thực phẩm cũng là một vấn đề hết sức quan trọng, thực phẩm tươi ngon sẽ đảm bảo chất dinh dưỡng. Vì thế trong khi nhận thực phẩm tôi lựa chọn những thực phẩm tươi ngon, không dập nát, 
Ví dụ như:
+ Đối với loại thịt lợn: miếng thịt nhìn tươi ngon, khi chúng ta dùng ngón tay nhấn mạnh vào miếng thịt mà miếng thịt đàn hồi trở lại là miếng thịt đó đạt yêu cầu hoặc chúng ta có thể dùng dao khía tảng thịt đó ra thành từng miếng nhỏ để kiểm tra là tốt nhất.(H.1)
+ Đối với thịt bò: cách kiểm tra tương tự như thịt lợn nhưng với thịt bò ta có thể dùng mũi để ngửi mùi thơm đặc trưng
 Thớ nhỏ, thịt có màu đỏ hồng mỡ màu vàng nhạt thịt dẻo mềm se sợt thịt dẻo dính tay độ đàn hồi tốt.(H.2)
+ Đối với thịt gà: chọn con to, béo, mình tròn, da vàng, chân nhỏ và xách chắc tay là gà ngon.(H.3)
Thịt mềm, đàn hồi.
Da co giãn tốt, màu trắng và màu vàng tự nhiên.
Không nên mua gà quá non hoặc quá già.
Gà bị bơm nước da mọng thịt mềm nhão.
Gà bị nhuộm bột sắt có màu vàng hơi nâu ánh xanh
+ Đối với cá: chọn con to, mình dày, còn sống, không chửa.(H.4)
 Chất nhờn trong suốt.
Mắt cá hơi lồi nhấp nháy liên hồi, trong và sáng.
Mang cá đỏ tươi, nếp xếp đều.
Ấn tay vào thịt cá chắc thớ thịt săn.
Vẩy sàng và dính chặt khó gỡ.
Hậu môn trắng nhạt, không lồi bụng, không phình bụng.
+ Đối với rau củ quả: ta nhìn tươi ngon, xanh mượt, không bị dập nát(H.5)
 Hình dạng bình thường, màu sắc tự nhiên của từng loại rau.
Rau phải tươi non mới hái, không bị dập nát hoặc vàng úa.
Không có mùi lạ hoặc mùi thuốc trừ sâu.
Nên chú ý một số loại rau quả bên trong đã bị hỏng nhưng bên ngoài vẫn còn tươi do sử dụng hóa chất bảo quản, do đó phải lựa chọn kỹ trước khi sử dụng.
3.3.Biện pháp 3: Vệ sinh an toàn thực phẩm, đồ dùng dụng cụ nhà bếp và vệ sinh môi trường
* Vệ sinh an toàn thực phẩm
- Muốn trẻ mau lớn thì ăn uống phải đủ về số lượng và chất lượng nhưng phải ăn sạch, uống sạch, tránh mắc bệnh tiêu hoá và nhiễm trùng đường ruột
- Thực tế hiện nay cho thấy, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm là mối quan tâm hàng đầu của nhà nước và toàn xã hội, là một công việc mang tính xã hội cao đòi hỏi các cấp, các ngành quan tâm ngay từ việc nuôi trồng đến sản xuất, bảo quản, chế biến, sử dụng cùng tham gia qiải quyết.
- Để phòng tránh ngộ độc thực phẩm trong trường mầm non tôi luôn lưu ý đến việc lựa chọn thực phẩm, sơ chế thực phẩm, chế biến thực phẩm đến khâu sử dụng và bảo quản thực phẩm. Mỗi người chúng ta không thể coi nhẹ bất cứ khâu nào. Do vậy, tôi luôn thực hiện nghiêm túc 10 nguyên tắc vàng chế biến thực phẩm an toàn của tổ chức y tế thế giới:
10 NGUYÊN TẮC VÀNG CỦA WHO
VỀ AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM
(Cho người làm bếp)
Nguyên tắc 1: Chọn thực phẩm an toàn.
 Chọn thực phẩm tươi. rau, quả ăn sống phải được ngâm và rửa kỹ bằng nước sạch. Quả nên gọt vỏ trước khi ăn. Thực phẩm đông lạnh để tan đá, rồi làm đông đá lại là kém an toàn.
Nguyên tắc 2: Nấu chín kỹ thức ăn. 
Nấu chín kỹ hoàn toàn thức ăn, là bảo đảm nhiệt độ trung  tâm thực phẩm phải đạt  tới trên 70° C.
Nguyên tắc 3: Ăn ngay sau khi nấu.
Hãy ăn ngay sau khi vừa nấu xong, vì thức ăn càng để lâu thì càng nguy hiểm.
Nguyên tắc 4: Bảo quản cẩn thận các thức ăn đã nấu chín. 
Muốn giữ thức ăn quá 5 tiếng đồng hồ, cần phải giữ liên tục nóng trên  60° C hoặc lạnh dưới 10° C. Thức ăn cho trẻ nhỏ không nên dùng lại.
Nguyên tắc 5: Nấu lại thức ăn thật kỹ.
Các thức ăn chín dùng lại sau 5 tiếng, nhất thiết phải được đun kỹ lại.
Nguyên tắc 6: Tránh ô nhiễm chéo giữa thức ăn chín và sống, với bề mặt bẩn.
Thức ăn đã được nấu chính có thể bị nhiễm mầm bệnh do tiếp xúc trực tiếp với thức ăn sống hoặc gián tiếp với các bề mặt bẩn (như dùng chung dao, thớt để chế biến thực phẩm sống và chín).
Nguyên tắc 7: Rửa tay sạch trước khi chế biến thức ăn và sau mỗi lần gián đoạn để làm việc khác.
Nếu bạn bị nhiễm trùng ở bàn tay, hãy băng kỹ và kín vết thương  nhiễm trùng đó trước khi chế biến thức ăn.
Nguyên tắc 8: Giữ sạch các bề mặt chế biến thức ăn.
Do thức ăn dễ bị nhiễm khuẩn, bất kỳ bề mặt nào dùng để chế biến thức ăn cũng phải được giữ sạch. Khăn lau bát đĩa cần phải được luộc nước sôi và thay thường xuyên trước khi sử dụng lại.
Nguyên tắc 9: Che đậy thực phẩm để tránh côn trùng và các động vật khác.
Che  đậy giữ thực phẩm trong hộp kín, chạn, tủ  kính, lồng bàn... Đó là cách bảo vệ tốt nhấy. Khăn đã dùng che đậy thức ăn chín phải được giặt sạch lại.
Nguyên tắc 10: Sử  dụng nguồn nước sạch an toàn.
Nước sạch là nước không màu, mùi, vị lạ và không chứa mầm bệnh. hãy đun sôi trước khi làm đá uống. Đặc biệt cẩn thận với nguồn nước dùng nấu thức ăn cho trẻ nhỏ
- Phải có khu tập kết, sơ chế thực phẩm sống.
- Khu chế biến thực phẩm.
- Khu pha chế thực phẩm chín – hoa quả - chia thức ăn.
- Các khu phải đảm bảo đường đi của thực phẩm theo chiều từ khâu tiếp nhận thực phẩm sống đến khâu chia thức ăn chín.
* Rửa thường xuyên trong quá trình chế biến thực phẩm.
- Rửa sạch và vệ sinh tất cả các dụng cụ chế biến thực phẩm.
- Luôn luôn giữ sạch khu bếp tránh xâm nhập của côn trùng, sâu bọ, ruồi, gián và các loại động vật gây bệnh khác.
- Rửa sạch tay sau khi đi vệ sinh.
 * Để riêng từng loại thực phẩm đặc biệt là thịt gia cầm và hải sản vì chúng có chứa các vi sinh gây nguy hại có thể truyền sang các thực phẩm khác trong quá trình chế biến và bảo quản.
* Các dụng cụ dao thớt để chế biến thực phẩm sống và thực phẩm chín phải sử dụng riêng biệt.
* Đựng thực phẩm trong các dụng cụ có nắp đậy để tránh giữa thực phẩm sống và thực phẩm chín.
* Đun nấu kỹ thực phẩm. 
- Đun nấu kỹ thực phẩm trên 100oC mới được sử dụng.
- Đối với thực phẩm gia cầm sau khi nấu chín phải đảm bảo miếng thịt chín trong, thịt không có màu hồng.
- Phải dùng nước sạch an toàn để chế biến thức ăn, đồ uống và rửa dụng cụ.
- Nước dùng cho trẻ phải không có mùi, không vị, không màu sắc, nều nguồn nướcc có nghi ngờ phải báo ngay Ban giám hiệu để có biện pháp xử lý.
* Sử dụng thực phẩm.
- Đối với các loại thực phẩm không cần nấu chín như các loại hoa quả thì phải ăn ngay sau khi bóc vỏ.

File đính kèm:

  • doccsndthuymnquangtrungdoc_22420209.doc