Tìm hiểu về công việc quản trị

I. CÁC KHÁI NIỆM VỀ QUẢN TRỊ

1. Sự ra đời của Quản trị

Quản trị (nói chung) xuất hiện rất lâu, từ khi xã hội loài người biết sống và hoạt động tập thể. Ngay từ ngày đầu, con người sống thành bầy đàn đã biết nương tựa vào nhau đấu tranh chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, với thú dữ để sinh tồn; mặt khác, do có sự khác nhau về tuổi tác, trí lực và thể lực mà vị trí của mỗi người trong cộng đồng cũng không giống nhau, có người làm đựơc việc này mà không làm được việc khác nhưng tất cả đều muốn tồn tại và phát triển, đời sống của họ ngày càng được tốt hơn. Vì vậy, trong xã hội đòi hỏi phải có sự phân công lao động và từ đó công việc quản trị và người quản trị xuất hiện nhằm điều phối công việc chung, làm cho cho các hoạt động của cộng đồng đem lại kết quả cao hơn, đáp ứng ngày càng nhiều hơn nhu cầu mọi mặt đời sống của mình.

Để thích ứng với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, quản trị ngày càng được củng cố và hoàn thiện. Ngày nay, quản trị hình thành nhiều dạng khác nhau:

- Quản trị quá trình thế giới vô sinh như: đất đai, hầm mỏ

- Quản trị quá trình thế giời hữu sinh như: cây trồng, vật nuôi.

- Quản trị xã hội loài người bao gồm:

 + Quản trị nhà nước.

 + Quản trị các tổ chức đoàn thể xã hội.

+ Quản trị sản xuất kinh doanh tại các tổ chức kinh tế.

 

doc101 trang | Chia sẻ: thuyhoa.qn | Lượt xem: 1732 | Lượt tải: 0Download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tìm hiểu về công việc quản trị, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA QUẢN TRỊ
I. CÁC KHÁI NIỆM VỀ QUẢN TRỊ 
1. Sự ra đời của Quản trị
Quản trị (nói chung) xuất hiện rất lâu, từ khi xã hội loài người biết sống và hoạt động tập thể. Ngay từ ngày đầu, con người sống thành bầy đàn đã biết nương tựa vào nhau đấu tranh chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, với thú dữ để sinh tồn; mặt khác, do có sự khác nhau về tuổi tác, trí lực và thể lực mà vị trí của mỗi người trong cộng đồng cũng không giống nhau, có người làm đựơc việc này mà không làm được việc khác nhưng tất cả đều muốn tồn tại và phát triển, đời sống của họ ngày càng được tốt hơn. Vì vậy, trong xã hội đòi hỏi phải có sự phân công lao động và từ đó công việc quản trị và người quản trị xuất hiện nhằm điều phối công việc chung, làm cho cho các hoạt động của cộng đồng đem lại kết quả cao hơn, đáp ứng ngày càng nhiều hơn nhu cầu mọi mặt đời sống của mình.
Để thích ứng với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, quản trị ngày càng được củng cố và hoàn thiện. Ngày nay, quản trị hình thành nhiều dạng khác nhau:
Quản trị quá trình thế giới vô sinh như: đất đai, hầm mỏ
Quản trị quá trình thế giời hữu sinh như: cây trồng, vật nuôi.
Quản trị xã hội loài người bao gồm:
 	+ Quản trị nhà nước.
 	+ Quản trị các tổ chức đoàn thể xã hội.
+ Quản trị sản xuất kinh doanh tại các tổ chức kinh tế. 
 Ngoài những đặc điểm chung của Quản trị, ở mỗi dạng quản trị khác nhau chịu sự chi phối của một số qui luật riêng và có những đặc điểm riêng. Do đó, cần có những nội dung nghiên cứu phù hợp. Trong chương trình môn học này chúng ta chỉ đề cập đến quản trị sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp và nghiên cứu chúng trong mối liên hệ hữu cơ với các dạng quản trị khác, nhất là quản trị nhà nước.
Như vậy, quản trị ra đời là một tất yếu khách quan cùng với quá trình hình thành, phát sinh và phát triển của đoàn nhóm, tổ chức nhà nước, xã hội và tổ chức kinh tế.
2. Tính tất yếu khách quan của Quản trị
 Từ phân tích về sự ra đời của quản trị ở trên cho ta thấy rằng, quản trị xuất hiện trong đời sống xã hội loài người không phải do ý muốn chủ quan của một ai, hay một nhóm người nào mà do đòi hỏi của thực tại khách quan trong một xã hội có hoạt động tập thể và có sự phân công lao động xã hội, cần phải được phối hợp các hoạt động riêng lẻ, cá biệt nhằm hoàn thành những công việc mà từng cá nhân riêng lẻ không thể làm được; nâng cao hơn kết quả mà họ mong đợi.
- Nói về tính tất yếu khách quan của quản trị, C.Mac có câu nói nổi tiếng: “Một nghệ sĩ chơi đàn thì tự điều khiển lấy mình nhưng một dàn nhạc thì cần có người chỉ huy, người nhạc trưởng”. Như vậy, sự xuất hiện người chỉ huy “người nhạc trưởng” trong một tập thể để điều khiển hoạt động của một “dàn nhạc” không phải do ông ta muốn hay không mà do đòi hỏi khách quan của một tổ chức, ở đây là một “dàn nhạc”. 
- Còn theo quan điểm của GS. HAROLD KOONTZ thì cho rằng: “ Ngay từ khi con người bắt đầu hình thành các nhóm để thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu mà họ không thể đạt được với tư cách là cá nhân riêng lẻ, thì cách quản lý đã là một yếu tố cần thiết để đảm bảo phối hợp những nổ lực cá nhân”.
- Theo TS. Nguyễn Thị Liên Diệp khẳng định: “ Có thể nói rằng lý do tồn tại của hoạt động quản trị chính là vì muốn có hiệu quả và chỉ khi nào người ta quan tâm đến hiệu quả thì người ta mới quan tâm đến hoạt động quản trị”
 Như vậy, Quản trị là gì mà chúng không thể thiếu trong một tổ chức?
3. Khái niệm về Quản trị
 Quản trị (Management) là từ thường được dùng phổ biến trong nhiều sách giáo khoa và nhiều tài liệu khác. Nếu xét riêng từng từ một thì ta có thể tạm giải thích như sau:
- Quản: là đưa đối tượng vào khuôn mẫu qui định sẵn. Ví dụ: Cha mẹ bắt đứa bé phải làm theo một kế hoạch do mình định ra; sáng phải đi học, buổi trưa nghỉ ngơi, buổi chiều học bài, trước khi đi phải thưa về phải chào,  Đó là cái khuôn mẫu chúng phải thực hiện chứ không để đối tượng tự do hoạt động một cách tùy thích.
- Trị: là dùng quyền lực buộc đối tượng phải làm theo khuôn mẫu đã định. Nếu đối tượng không thực hiện đúng thì sẽ áp dụng một hình phạt nào đó đủ mạnh, đủ sức thuyết phục để buộc đối tượng phải thi hành. Nhằm đạt tới trạng thái mong đợi, có thể có và cần phải có mà người ta gọi là mục tiêu.
 Sau đây là những khái niệm về Quản trị của một số tác giả là Giáo sư, Tiến sĩ quản trị học trong và ngoài nước.
- Theo GS. H.Koontz “ Quản lý là một hoạt động tất yếu; nó đảm bảo phối hợp những nổ lực cá nhân nhằm đạt được những mục đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là nhằm mà trong đó con người có thể đạt được các mục tiêu của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn của cá nhân ít nhất”.
 	- Quản trị được xem như là một quá trình thực hiện các chức năng quản trị, Thầy Nguyễn Tiến Phước khái niệm:“ Quản trị là quá trình hoạch định, tổ chức, bố trí nhân sự, lãnh đạo và kiểm soát công việc và những nổ lực của con người, đồng thời vận dụng một cách có hiệu quả mọi tài nguyên, để hoàn thành các mục tiêu đã định”. 
 	- Theo GS. Vũ Thế Phú: “quản trị là một tiến trình làm việc với con người và thông qua con người để hoàn thành mục tiêu của một tổ chức trong một môi trường luôn luôn thay đổi. Trọng tâm của tiến trình này là sử dụng có hiệu quả những nguồn tài nguyên có hạn”.
Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể khái quát: quản trị là quá trình tác động thường xuyên, liên tục và có tổ chức của chủ thể quản trị (hệ thống quản trị) đến đối tượng quản trị (hệ thống bị quản trị) nhằm phối hợp các hoạt động giữa các bộ phận, các cá nhân, các nguồn lực lại với nhau một cách nhịp nhàng, ăn khớp để đạt đến mục tiêu của tổ chức với hiệu quả cao nhất. Thực vậy, quản trị thực chất là một quá trình tác động mà quá trình đó không phải ngẫu nhiên mà được tiến hành một cách cóù tổ chức và có chủ đích của chủ thể quản trị (hệ thống quản trị) được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục nhằm làm cho các hoạt động của tập thể (tổ chức) mang lại kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất, thỏa mãn ngày càng nhiều hơn nhu cầu về vật chất và tinh thần của cả cộng đồng. 
Để làm được điều đó, quản trị có những chức năng, vai trò gì? Và cần có những kỹ năng nào?
II. CHỨC NĂNG, VAI TRÒ VÀ KỸ NĂNG QUẢN TRỊ
1. Chức năng quản trị
 	Chức năng của hệ thống quản trị trong một tổ chức, gọi tắt là chức năng quản trị là nhiệm vụ chung (nhiệm vụ tổng quát) mà hệ thống quản trị phải thực hiện trong quá trình quản trị. Có nhiều căn cứ để phân loại các chức năng quản trị.
1.1 Căn cứ theo lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh:
Ta có các chức năng quản trị cụ thể như sau:
Quản trị chất lượng.
Quản trị Makerting.
Quản trị sản xuất.
Quản trị tài chính.
Quản trị kế toán.
Quản trị hành chính, văn phòng 
Như vậy, tương ứng với mỗi lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh là một chức năng quản trị. Cách phân loại này nó không phản ánh khái quát các nhiệm vụ chung của quản trị, là những chức năng cụ thể được phân chia một cách linh hoạt tùy thuộc vào trình độ phát triển sản xuất của xã hội. Khi trình độ sản xuất của xã hội còn thấp thì sự phân chia ít chức năng; ngược lại khi trình độ sản xuất xã hội càng cao, qui mô sản xuất càng lớn, sự phân công lao động càng sâu sẽ phát sinh nhiều chức năng mới. 
1.2 Căn cứ theo nội dung của quá trình quản trị
Tác giả của các lý thuyết quản trị nhiều nước trên thế giới đã đề ra những chức năng (nhiệm vụ chung) của quản trị như sau:
- Năm 1916, nhà quản trị nổi tiếng người Pháp HENRY FAYOL cho rằng quản trị có 5 chức năng sau:
 	+ Chức năng hoạch định (Planing).
+ Chức năng tổ chức (Organizing)
	+ Chức năng chỉ huy (Directing)
+ Chức năng phối hợp (Coordinating)
	+ Chức năng kiểm tra (Reviewing)
Có thể nói, HENRY FAYOL là người có công đầu trong việc hình thành lý thuyết quản trị tương đối có hệ thống và chặt chẽ nhất lúc bấy giờ. Trong đó, ông chia các hoạt động của một tổ chức thành 6 nhóm công việc, đề ra 14 nguyên tắc và 5 chức năng Quản trị. Những đề nghị này của ông đã được đưa vào giảng dạy ở nhiều trường Đại học tại nhiều nước trên thế giới.
Tuy nhiên, trong 5 chức năng Quản trị của ông hiện còn có ý kiến cho rằng, phối hợp không phải là chức năng mà là mục đích của quản trị. Bỡi vì, khi thực hiện các chức năng hoạch định, tổ chức, chỉ huy, kiểm tra không có gì khác là nhằm để phối hợp các hoạt động, các nguồn lực trong một tổ chức để đạt đến mục tiêu mà chủ thể quản trị mong đợi.
- Sau đó 7 năm, vào năm 1923 LYTHER GUILICK và LYNDAL URWICH chia thành 7 chức năng:
+ Hoạch định.
+ Tổ chức.
 	+ Nhân sự (Staffing)
 	+ Thực hiện
 	+ Phối hợp.
 	+ Kiểm tra.
 	+ Tài chính (Budgeting).
Trong hệ thống các chức năng này cũng còn nhiều ý kiến tranh cãi. Chẳng hạn, có người cho rằng chức năng tổ chức trong đó bao gồm có cả chức năng nhân sự, vì vậy không thể tách “nhân sự” thành một chức năng riêng; hoặc “thực hiện” không chỉ là một chức năng riêng của hệ thống quản trị; hay “tài chính” là một chức năng cụ thể chứ không phải là một chức năng chung của quản trị
-Đến thập niên 60 của thể kỷ XX, HAROLD KOONTZ và CYRIL O’DONNELL nêu lên 5 chức năng:
+ Kế hoạch.
 	+ Tổ chức.
 	+ Nhân sự.
 	+ Lãnh đạo.
 	+ Kiểm tra.
-Và, đến thập niên 80 của thế kỷ XX, JAMES STONER và STEPHEN P.ROBBINS lại chia thành 4 chức năng:
+ Hoạch định.
 	+ Tổ chức. 
 	+ Lãnh đạo.
 	+ Kiểm tra.
- Ngày nay, các chức năng chung của quản trị đã được trình bày trong nhiều sách giáo khoa ở các trường đại học và cao đẳng Việt Nam bao gồm:
 	+ Hoạch định.
 	+ Tổ chức.
 	+ Điều khiển. (Có tác giả còn gọi là chức năng lãnh đạo hoặc chỉ huy).
 	+ Kiểm tra - kiểm soát.
 Với hệ thống chức năng này phản ánh khá đầy đủ những nhiệm vụ chung (nhiệm vụ tổng quát) của quản trị trong giai đoạn hiện nay. 
2. Vai trò của Quản trị
 	Hệ thống quản trị thực hiện các chức năng của mình thông qua giữ nhiều vai trò khác nhau trong quá trình quản trị. Nếu chức năng quản trị là những nhiệm vụ chung (nhiệm vụ tổng quát) thì vai trò quản trị là những công việc cụ thể, là tập hợp những hành vi có tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Theo Henry Mitzberg, nhà nghiên cứu Hoa Kỳ cho rằng quản trị có 10 vai trò phổ biến được tập hợp thành 3 nhóm:
- Nhóm 1: Vai trò quan hệ, bao gồm các vai trò là người đại diện; vai trò người lãnh đạo; vai trò người quan hệ với các cá nhân và tập thể trong và ngoài tổ chức.
 	- Nhóm 2: Vai trò thông tin, bao gồm các vai trò là người cung cấp thông tin; phổ biến thông tin; thu thập và thẩm định thông tin.
 - Nhóm 3: Vai trò quyết định, bao gồm các vai trò nhà doanh nghiệp; vai trò người giải quyết xung đột; vai trò người phân phối tài nguyên trong tổ chức.
3. Các kỹ năng quản trị
Để thể hiện đầy đủ vai trò của mình trong tổ chức, đòi hỏi bất cứ nhà quản trị nào cũng cần có 3 kỹ năng cơ bản. Nó biểu hiện năng lực của người quản trị, là nguyên nhân sự thành đạt của nhà quản trị. LENIN nói: “Làm quản lý cần phải rành nghề  tức là phải tinh thông tất cả mọi điều kiện trong sản xuất, phải biết kỹ thuật sản xuất cao độ hiện đại, phải có sự tu dưỡng nhất định về khoa học”.
3.1 Nội dung các kỹ năng quản trị
a. Kỹ năng nhận thức (hay kỹ năng tư duy)
Là chức năng quan trọng nhất đối với nhà quản trị, nó đòi hỏi nhà quản trị phải am hiểu trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội; thấu hiểu mức độ phức tạp và biết giảm thiểu mức độ phức tạp; nhận biết, phán đoán chính xác những sự vật và hiện tượng và phản ứng một cách nhanh nhạy các tình huống phát sinh. Đây có thể nói là một kỹ năng quan trọng, nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại của nền kinh tế tri thức.
b. Kỹ năng quan hệ
Là kỹ năng có liên quan tới quan hệ với con người, tạo thuận lợi và thúc đẩy con người hoàn thành các công việc chung. Kỹ năng này thể hiện việc thông qua các hình thức, phương pháp tác động tới con người như lời nói, chữ viết, thái độ ứng xử,  có sức thuyết phục, tập hợp (quy tụ) được những người đứng chung quanh mình hoàn thành tốt những mục tiêu đã đề ra với hiệu quả cao nhất. Tất nhiên, muốn làm được như vậy còn đòi hỏi ở người quản trị phải có năng lực và uy tín nhất định. Người có năng lực và uy tín cao trong tập thể sẽ dễ dàng tập hợp các thành viên trong tổ chức; ngược lại dễ gặp phải sự không chấp nhận của cấp dưới ở nhiều mức độ và bằng nhiều hình thức khác nhau. 
c. Kỹ năng chuyên môn
Là khả năng cần thiết để thực hiện một công việc cụ thể; biểu hiện trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhà quản trị như soạn thảo một văn bản hành chính, lập một hợp đồng kinh tế, lập trình quản lý, ra một quyết định quản trị,  Mặc khác, kỹ năng này còn đòi hỏi ở người quản trị phải hiểu biết chuyên môn của đơn vị mình phụ trách, chẳng hạn một cán bộ quản trị ngân hàng phải am hiểu các nghiệp vụ ngân hàng của mình.
 Tuy nhiên, do vai trò của quản trị viên ở các cấp quản trị không giống nhau nên yêu cầu mức độ thành thạo các kỹ năng có sự khác nhau. 
3.2 Yêu cầu các kỹ năng quản trị ở các cấp quản trị
 	- Quản trị viên cấp cao: Đòi hỏi nhiều ở kỹ năng nhận thức; biết cách quan hệ (làm việc với con người) tốt; nhưng đòi hỏi ở kỹ năng chuyên môn kỹ thuật cụ thể về các lĩnh vực quản trị ít hơn so với quản trị viên ở các cấp khác. Bỡi vì, vai trò của anh ta trong hệ thống quản trị là người hoạch định ra các mục tiêu, đường lối, chính sách,  của tổ chức; các nghiệp vụ chuyên môn cụ thể phần lớn do quản trị viên cấp trung và cấp thấp thực hiện. 
- Quản trị viên cấp trung: Đòi hỏi các kỹ năng quản trị ở mức trung bình. Bỡi anh ta là bộ phận trung gian, với vai trò chủ yếu là chuyển tải “trung chuyển” các thông tin mệnh lệnh từ cấp cao xuống cấp thấp và nhận những thông tin phản hồi từ cấp thấp lên cấp cao. 
- Quản trị viên cấp thấp: Đòi hỏi nhiều ở kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, nhưng kỹ năng nhận thức lại ít so với quản trị viên các cấp khác. Bỡi vì, họ là những người trực tiếp thi hành các nghiệp vụ chuyên môn trong từng lĩnh vực quản trị cụ thể. 
Những yêu cầu mức độ thành thạo các kỷ năng quản trị trên được minh họa bằng hình sau (Xem hình 1).
 Kỹ năng nhận thức
 Kỹ năng quan hệ
 Kỹ năng ch/môn
 QTV cấp cao QTV cấp trung QTV cấp thấp
 Hình 1: Yêu cầu mức độ thành thạo các kỹ năng quản trị 
 đối với quản trị viên ở các cấp quản trị.
Hệ thống quản trị thực hiện các chức năng thông qua các vai trò của mình với các kỹ năng hoàn hảo sẽ có một ý nghĩa to lớn đối với doanh nghiệp. Năng lực quản trị ngày nay được xem là một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia nói chung hay một tổ chức kinh tế nói riêng. Các nguồn lực đó là: năng lực quản trị, lao động (đặc biệt là chất lượng lao động), vốn, khoa học kỹ thuật - công Vốn 
Lao động
nghệ và tài nguyên thiên nhiên (Xem hình 2).
Tài nguyên
Khoa học kỹ thuật
Năng lực quản trị
 Hình 2: Các nguồn lực phát triển của một tổ chức.
 	Chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, năng lực Quản trị là quan trọng nhất, bỡi vì các nguồn lực khác có phát huy tác dụng được hay không đều phụ thuộc phần lớn vào năng lực quản trị. Điều đó có thể chứng minh qua các số liệu sau:
1. Theo tài liệu của GS. Nguyễn văn Lê. Nguyên nhân phá sản mộât doanh nghiệp: 
 -60% do quản trị thiếu khả năng. 
 -20% do chiều hướng bất lợi.
 -10% do tai nạn .
 -10% do các yếu tố linh tinh khác.
2. Các nhà kinh tế Pháp điều tra nghiên cứu và phân định trước những tổn thất của doanh nghiệp do các nguyên nhân sau:
 -50% thuộc về lãnh đạo.
 -25% thuộc về giáo dục – đào tạo.
 -25% thuộc về những người thừa hành.
 	3. Nhật Bản là nước đất hẹp, người đông, các điều kiện tự nhiên, văn hoá gần giống ta. Thế mà sau chiến tranh thế giới thứ 2 (Nhật Bản là nước thua trận và hoang tàn đổ nát như Việt Nam sau chiến tranh) kết thúc người Nhật lập nên những kỳ tích trong kinh tế làm cho cả thế giới phải kinh ngạc và học hỏi ở họ:
- Năm 1950, GDP của Nhật là 20 tỉ USD, bằng: 
+ 60% của CHLB Đức.
 	+ 50% của Pháp.
 	+1/3 của Anh.
 	+1/17 của Mỹ.
- Năm 1966 (sau 16 năm) Nhật vượt Pháp.
 	- Năm 1967 vượt Anh.
 	- Năm 1968 vượt CHLB Đức và cho đến nay vẫn là một cường quốc kinh tế đứng thứ hai sau Mỹ. Có nhiều yếu tố để người Nhật làm nên điều thần kỳ đó, nhưng các nhà kinh tế cho rằng quản trị là một yếu tố chiếm vị trí quan trọng nhất. Quả thật vậy, người Nhật đã biết tìm cho mình một cung cách quản trị riêng phù hợp với nền văn hóa của đất nước và con người “Mặt trời mọc”, được biểu hiện một cách sinh động qua lý thuyết Z của William Ouchi. 
Từ các khái niệm - chức năng - vai tròø chúng ta có thể rút ra các đặc điểm quản trị như sau: 
III- ĐẶC ĐIỂM CỦA QUẢN TRỊ.
 	1- Đối tượng quản trị là con người, quản trị con người là một công việc khó khăn và phức tạp.
 Quản trị suy cho đến cùng là quản trị con người, người quản trị làm việc cùng với và thông qua người khác. Trong mỗi con người hay nhóm người đều có những đặc điểm tâm – sinh lý khác nhau, trình độ khác nhau, nhận thức khác nhau,  dẫn tới những hành động không giống nhau. Muốn quản trị có hiệu quả trước hết phải hiểu về họ; hiểu được họ là điều không dễ, nhưng đáp ứng được những nhu cầu của họ lại càng khó khăn và phức tạp hơn nhiều lần, nó luôn luôn là mục đích cần vươn tới của các nhà quản trị. 
Mặt khác, con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Sống trong một tổ chức, ở đó mỗi người có những mối quan hệ nhiều mặt với cộng đồng mang tính xã hội như: quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế, quan hệ

File đính kèm:

  • docGtrinh-QTH.doc